Đoạn
3 : "Kẻ thù của nhân dân"
Stalin là người
đề xướng quan niệm "kẻ thù của
nhân dân". Thuật ngữ này tự nó loại trừ
sự cần thiết phải chứng tỏ những sai
lầm về tư tưởng của từng cá nhân hay
đoàn thể. Nó tạo điều kiện cho việc vi
phạm mọi chuẩn mực của pháp luật cách
mạng, áp dụng những biện pháp khủng bố tàn
bạo nhất với bất kỳ ai không đồng t́nh
với Stalin trong bất kỳ một vấn đề
nào, đối với những người mới chỉ
bị nghi vấn là đang chuẩn bị hoạt
động chống phá cũng như với những
kẻ vô tăm tiếng.
Tự bản
thân, quan niệm "kẻ thù của nhân dân", trong
thực tế, đă loại bỏ khả năng mở
ra bất kỳ một cuộc đấu tranh tư tưởng
nào, hoặc ngăn cản người khác không được
phát biểu ư kiến về một vấn đề nhất
định, ngay cả khi vấn đề ấy là
thực tiễn, chứ không mang tính lư luận. Trái
hẳn với mọi nguyên tắc pháp lư, người ta
chỉ dựa vào lời "thú tội" của bị
cáo để buộc tội, coi đó là bằng chứng
chính yếu và duy nhất trong thực tế. Các cuộc
thẩm tra sau này đă chứng tỏ : bằng
nhục h́nh, người ta đă cưỡng bức các
bị cáo phải tuôn ra những lời "thú
tội".
Điều này
dẫn đến chỗ pháp lư cách mạng bị vi
phạm trầm trọng, và nhiều người hoàn toàn vô
tội - trong quá khứ từng bảo vệ đường
lối của đảng - đă trở thành nạn nhân.
Phải nhớ
rằng ngay cả đối với những người
trước kia đă chống lại đường
lối của đảng, lắm lúc, dù chẳng có lư do ǵ
chính đáng, họ cũng bị giết hại. Quan
niệm "kẻ thù của nhân dân" được áp
dụng nhiều nhất chính là để sát hại
thể xác những người như thế.
Một thực
tế nữa là trong số những người bị
thanh trừng như "kẻ thù của đảng và
nhân dân", có nhiều người trước đây
từng cộng tác với Lênin. Trong số đó, hồi
sinh thời Lênin có vài người đă từng phạm
những sai lầm, nhưng Lênin - thường thường
hài ḷng với công việc của họ - đă cố
gắng giúp họ sửa chữa những sai lầm
ấy và t́m mọi cách giữ họ lại trong hàng ngũ
đảng ; đồng chí bao giờ cũng cố
gắng thuyết phục họ theo lẽ phải của
đồng chí.
Về
điểm này, các đại biểu Đại hội
đảng cần được biết nội dung
một bức thư - chưa bao giờ được
công bố - mà đồng chí V.I. Lênin gửi đến
Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương tháng
10-1920. Nhấn mạnh về nhiệm vụ của Ủy
ban Kiểm tra, Lênin nói rằng ủy ban này phải trở
nên một "cơ quan thực thụ của lương
tri đảng và lương tri vô sản" :
Nhân danh nhiệm
vụ đặc biệt của ḿnh, Ủy ban Kiểm tra
cần quan tâm chu đáo đến từng cá nhân, thậm
chí phải coi ḿnh như một liều thuốc chữa
bệnh đối với các đại diện phe
đối lập, những người bị khủng
hoảng tinh thần sau những thất bại của
họ trong chính quyền xô-viết hay trong đảng.
Cần phải cố gắng an ủi họ, giải thích
cho họ hiểu vấn đề trên t́nh đồng chí,
t́m cho họ (nên tránh lối ra lệnh) một công tác phù
hợp với đặc tính tâm lư của họ, phải
đưa những hướng dẫn và chỉ thị
về vấn đề này cho Ban Tổ chức trung
ương, v.v...
Mỗi người
chúng ta đều biết Lênin rất nghiêm khắc
đối với những kẻ thù tư tưởng
của chủ nghĩa Mác, với những ai đi sai đường
lối đúng dắn của đảng. Nhưng
đồng thời, cũng như tài liệu được
trích dẫn nói trên chứng tỏ, trong quá tŕnh lănh
đạo đảng, Lênin đ̣i hỏi đảng
phải cư xử thật sâu sắc với những ai
tỏ ra do dự hoặc chưa đồng t́nh với
đường lối của đảng trong một giai
đoạn tạm thời, nhưng sau này có thể trở
về với đảng. Lênin khuyên nhủ chúng ta phải
kiên nhẫn cải tạo những người này và
đừng áp dụng những biện pháp cực đoan
đối với họ.
Sự sáng
suốt của Lênin trong quan hệ với con người
đă bộc lộ rất rơ trong hành động
đối với các cán bộ đảng.
Nhưng trong
mối quan hệ với mọi người, Stalin lại
cư xử hoàn toàn trái ngược. Những phương
pháp của Lênin hoàn toàn xa lạ đối với Stalin.
Kiên nhẫn đối với con người, chú trọng
việc thường xuyên cải tạo họ, t́m cách
thuyết phục họ về với ḿnh, không cưỡng
chế mà chỉ dùng tác động tư tưởng thông
qua tập thể đảng - đây là những
điều Stalin không hề biết đến.
Stalin đă bác
bỏ phương pháp thuyết phục và giáo dục
lê-nin-nít, vứt bỏ phương pháp đấu tranh tư
tưởng và chỉ sử dụng phương pháp
bạo lực hành chính, đàn áp và khủng bố hàng
loạt. Dựa vào các cơ quan h́nh sự, Stalin đă áp
dụng những phương pháp ấy, ngày càng trên
diện rộng và ngày càng dai dẳng, giữa chừng,
đồng chí ấy thường xuyên chà đạp lên
mọi chuẩn mực đạo lư và pháp lư xô-viết.
Sự
độc đoán của một cá nhân đă thúc
đẩy và động viên hành vi độc đoán cho
những kẻ khác. Những vụ bắt bớ
đồng loạt hàng ngàn người, những vụ
hành quyết không đem ra xét xử tại ṭa án và không qua
thẩm xét thông thường đă tạo nên trạng thái
"bất an", tràn đầy nỗi lo âu, thậm chí
khiếp đảm.
Tất nhiên,
điều này không củng cố sự đoàn kết
giữa các cán bộ đảng và mọi tầng lớp
quần chúng lao động. Trái lại, nó dẫn
đến việc khai trừ khỏi đảng và
thủ tiêu nhiều chiến sĩ trung thành với đảng,
chỉ v́ họ không làm vừa ư Stalin.
Đảng ta đă
đấu tranh nhằm thực hiện những kế
hoạch xây dựng chủ nghĩa xă hội của Lênin.
Đây là cuộc đấu tranh về ư thức hệ.
Nếu trong cuộc đấu tranh này, những nguyên
tắc lê-nin-nít được thực hiện và nếu
sự tôn trọng nguyên tắc được ḥa hợp
đúng đắn với sự quan tâm, chăm sóc con người,
nếu con người không bị gạt bỏ mà được
đối xử phải lẽ, hiển nhiên là chúng ta
đă không gặp phải sự vi phạm luật pháp cách
mạng một cách thô bạo như thế, và hàng vạn
người đă không trở thành nạn nhân của
những phương pháp khủng bố. Lẽ ra, chỉ
được dùng các biện pháp bất thường
chống lại những kẻ quả thực có hành động
phá hoại hệ thống xô-viết.