| Trở
về trang chính
Bài bình luận 9 - Đảng Cộng Sản Trung Quốc với bản tính lừa dối
|
|
![]() |
Trong hơn 55 năm cầm quyền, ĐCSTQ không ngừng
sửa đổi lịch sử.
|
|
Lời dẫn Cuộc vận động chủ nghĩa cộng sản trải qua hơn một thế kỷ huyên náo chỉ mang lại cho nhân loại chiến tranh, nghèo khổ, hung tàn và chuyên chế. Với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống Đảng Cộng Sản Đông Âu, vở kịch tai hại và tàn bạo này rốt cùng đã bước sang màn chót vào cuối thế kỷ vừa qua. Không một ai, từ thường dân đến tổng bí thư Đảng, còn tin vào thần thoại chủ nghĩa cộng sản nữa. Chế độ cộng sản ra đời không phải “theo ý trời” (quân quyền thần thụ) [1] cũng không phải từ bầu cử dân chủ. Ngày nay, khi hệ tư tưởng của nó đã bị hủy diệt thì tính hợp pháp của sự thống trị này đang đối diện một thử thách chưa từng có trong lịch sử. ĐCSTQ (Đảng cộng sản Trung Quốc) đã không thuận theo trào lưu lịch sử tự động thoái xuất khỏi vũ đài lịch sử. Thay vào đó, nó sử dụng những thủ đoạn lưu manh đã được hình thành trong nhiều thập niên các cuộc vận động chính trị để đổi mới sự giãy chết cuồng loạn của nó nhằm tìm kiếm tính hợp pháp và để cải tử hồi sinh cái quyền lực đang chết của nó. Các chính sách cải cách và mở cửa của Trung Cộng (Đảng cộng sản Trung Quốc) che đậy một ý định tuyệt vọng là duy trì lợi ích tập đoàn và chính quyền độc tài của nó. Những thành tựu kinh tế đạt được bởi sự dốc sức của nhân dân Trung Quốc bất chấp những trói buộc chặt chẽ trong 20 năm qua đã không thuyết phục được ĐCSTQ buông con dao đồ tể của nó xuống. Thay vào đó, ĐCSTQ đã ăn cắp các thành tựu này và sử dụng chúng để chứng thực sự thống trị của nó là hợp pháp, làm cho các hành động lưu manh từ trước đến nay của nó còn giả dối và lầm lạc hơn. Điều đáng báo động nhất là ĐCSTQ đang gắng hết sức hủy diệt nền tảng đạo đức của cả quốc gia, cố gắng biến mỗi một công dân Trung Quốc trong mọi tầng lớp đều trở thành kẻ lưu manh nhằm để tạo nên một môi trường thuận lợi cho ĐCSTQ “thăng tiến với thời gian”. Vào thời điểm lịch sử ngày nay, đối với chúng ta việc hiểu tường tận tại sao ĐCSTQ hành động giống như những tên côn đồ và phơi bày bản chất hung ác của nó là đặc biệt quan trọng, có như vậy đất nước Trung Quốc mới có thể đạt được ổn định và hòa bình lâu dài, bước vào một kỷ nguyên thoát khỏi ĐCSTQ sớm nhất có thể, và xây dựng một tương lai huy hoàng của một đất nước đã được hồi phục.
Xuyên suốt lịch sử bất cứ khi nào ĐCSTQ gặp phải khủng hoảng nó sẽ biểu lộ một số dấu hiệu cải tiến, làm mê hoặc nhân dân hình thành những ảo tưởng về ĐCSTQ. Nhưng không có ngoại lệ nào cả, các ảo tưởng đều đã tan vỡ nhiều lần. Ngày nay ĐCSTQ đang theo đuổi các lợi ích ngắn hạn nhằm trình diễn một màn kịch kinh tế thịnh vượng để một lần nữa thuyết phục nhân dân tin vào các ảo tưởng về nó. Tuy nhiên, những xung đột cơ bản giữa quyền lợi của ĐCSTQ, đất nước và nhân dân quyết định rằng sự thịnh vượng giả dối này sẽ không kéo dài lâu nữa. “Sự cải cách” mà ĐCSTQ đã hứa hẹn chỉ có một nguyên do: duy trì sự thống trị của mình. Nó là một cải cách khập khiễng, một thay đổi trên bề mặt chứ không phải bản chất. Nằm bên dưới của sự phát triển khập khiễng đang tiềm ẩn một đại khủng hoảng xã hội. Một khi khủng hoảng bùng nổ, đất nước và nhân dân sẽ một lần nữa gặp khổ nạn. Với sự thay đổi những người đứng đầu, thế hệ lãnh đạo mới của ĐCSTQ không tham dự vào cuộc cách mạng cộng sản thời xưa, bởi thế sẽ có ít uy tín và tín nhiệm trong việc điều hành đất nước. Đang ở trong khủng hoảng về tính hợp pháp của mình, thì sự bảo vệ các quyền lợi Đảng đã trở thành một bảo đảm cơ bản ngày càng tăng nhằm duy trì quyền lợi của những cá nhân trong ĐCSTQ. Bản tính của ĐCSTQ là ích kỷ. Nó không bị kiềm chế. Hy vọng một đảng như vậy có thể hiến dâng bản thân để phát triển đất nước một cách hòa bình là một mơ tưởng hão huyền. Chúng ta hãy xem tờ Nhân dân nhật báo, cái loa của ĐCSTQ,
đã nói gì trên trang đầu vào ngày 12/7/2004: “Những phép biện chứng lịch
sử đã dạy cho các thành viên ĐCSTQ điều sau đây: Những điều nên đổi thì
phải đổi, còn không những tồi tệ sẽ xảy ra. Những gì không nên đổi thì
giữ không đổi, còn không nó sẽ dẫn đến tự huỷ diệt.” Cái gì cần phải giữ
không đổi? Nhân dân nhật báo giải thích: “Đường lối cơ bản của Đảng là
“một trung tâm, hai cơ bản” phải kéo dài vững chắc trong trăm năm không
một dao động”. [2] Người dân không nhất thiết phải hiểu cái gọi là “trung
tâm” và “cơ bản” tượng trưng cho cái gì, song mọi người đều biết rằng
cái dã tâm của bóng ma tà linh cộng sản là duy trì quyền lợi tập thể và
chế độ độc tài sẽ không bao giờ thay đổi. Chủ nghĩa cộng sản đã bị thất
bại trên toàn cầu, đang bị sụp đổ đến độ càng ngày càng suy tàn. Tuy nhiên,
trong khi vẫy vùng hấp hối thì một thứ gì càng thối nát lại càng có tính
tàn phá. Tranh luận về cải tiến dân chủ với Đảng Cộng Sản chẳng khác gì
yêu cầu cọp dữ khoác bộ da mới. Trong khi ĐCSTQ đang suy bại, nhân dân bất ngờ khám phá ra rằng qua nhiều thập niên bóng ma tà ác của ĐCSTQ với những thủ đoạn lưu manh thiên biến vạn hóa đã thấm nhuần những nhân tố tà ác của nó vào trong mọi khía cạnh đời sống của nhân dân. Khi Mao Trạch Đông chết, nhiều người đã khóc cay đắng trước tấm hình của Mao, tự hỏi “Không có Mao chủ tịch, Trung Quốc sẽ ra sao?” Mỉa mai thay, 20 năm sau, khi Đảng Cộng Sản đã mất tính hợp pháp để thống trị đất nước của nó, ĐCSTQ đã cho lan rộng một đợt tuyên truyền mới làm nhân dân một lần nữa lại tự hỏi một cách lo âu: “Nước Trung Quốc sẽ làm được gì nếu không có ĐCSTQ?” Trên thực tế, sự khống chế chính trị lan tràn khắp nơi của ĐCSTQ đã khắc sâu vào nền văn hóa hiện tại và tư tưởng người Trung Quốc đến nỗi ngay cả chuẩn mực mà người Trung Quốc đánh giá ĐCSTQ đều có dấu ấn của ĐCSTQ hoặc xuất phát từ ĐCSTQ. Nếu trong quá khứ ĐCSTQ khống chế nhân dân bằng cách truyền thấm nhuần nhuyễn những yếu tố của nó vào họ, thì giờ đây ĐCSTQ đã đến lúc phải gặt hái những gì nó gieo mầm, bởi vì những điều thấm nhuần trong tâm trí người dân đã được tiêu hóa và hấp thụ vào từng tế bào của họ. Người dân suy nghĩ dựa theo lập luận của ĐCSTQ và tự đặt mình vào vị trí của ĐCSTQ mà phán xét đúng sai. Nói về việc ĐCSTQ thảm sát các sinh viên học sinh biểu tình ngày 4/6/1989, có người bảo “Nếu tôi là Đặng Tiểu Bình tôi cũng sẽ dập tắt cuộc nỗi loạn bằng xe tăng”. Trong cuộc đàn áp Pháp Luân Công, có người hùa theo rằng “Nếu tôi là Giang Trạch Dân, tôi cũng tiêu diệt Pháp Luân Công.” Về việc cấm tự do ngôn luận, có người bảo rằng “Nếu tôi là ĐCSTQ tôi cũng làm như vậy.” Chân lý và lương tri đã biến mất, chỉ còn lại lô-gic của ĐCSTQ. Đây là một trong những thủ đoạn độc ác và ghê tởm nhất của ĐCSTQ đã được ĐCSTQ sử dụng vì bản chất lưu manh của nó. Khi nào những độc tố tinh thần mà ĐCSTQ đã tiêm nhiễm vào vẫn còn trong đầu óc nhân dân, thì ĐCSTQ càng có cơ hội tiếp tục thâu đoạt năng lượng để duy trì sinh mệnh lưu manh của nó. “Nước Trung Quốc sẽ làm được gì nếu không có ĐCSTQ?” Lối suy nghĩ này phù hợp chính xác với mục đích của ĐCSTQ là làm cho người dân suy luận theo lô-gic của nó. Trung Quốc đã trải qua 5000 năm lịch sử văn minh của nó mà không có ĐCSTQ. Thực tế, không một đất nước nào trên thế giới lại ngừng tiến triển xã hội chỉ vì sự sụp đổ của một chế độ nào đó. Tuy nhiên sau hàng chục thập niên dưới sự thống trị của ĐCSTQ, nhân dân đã không còn nhìn nhận ra được thực tế này. Sự tuyên truyền lâu dài của ĐCSTQ đã tôi luyện người dân nghĩ Đảng như là mẹ đẻ của họ. Các đường lối chính trị của ĐCSTQ có mặt ở khắp nơi đã khuất phục được nhân dân làm cho họ không thể nhận thức được cuộc sống không có ĐCSTQ sẽ thế nào. Không có Mao Trạch Đông, Trung Quốc đã không đổ vỡ. Vậy thì nếu không có ĐCSTQ nước Trung Quốc có sụp đổ không? Ai là nguồn rối loạn thật sự? Rất nhiều người biết và không thích những hành vi lưu manh của ĐCSTQ, và ghê tởm những thứ đấu tranh và dối trá của nó. Nhưng đồng thời họ lại sợ hãi những cuộc vận động chính trị của ĐCSTQ và những rối loạn (là) hậu quả (của những cuộc vận động này), và sợ sự rối loạn một lần nữa sẽ viếng thăm Trung Quốc. Bởi thế, mỗi khi ĐCSTQ hăm dọa người dân với chữ “rối loạn”; người dân liền lặng lẽ chấp thuận sự cai trị của ĐCSTQ, cảm thấy vô vọng khi đối diện với quyền lực chuyên chế của ĐCSTQ. Trên thực tế, với hàng triệu quân đội và cảnh sát vũ trang, ĐCSTQ là nguồn rối loạn thật sự. Những người dân thường không tài nào gây nên hoặc có khả năng khởi xướng rối loạn đến cho đất nước. “Ổn định quan trọng hơn tất cả mọi thứ” và “Nhổ tận gốc mầm mống của tất cả các nhân tố bất ổn định” — các khẩu hiệu này đã trở thành cơ sở lý thuyết mà ĐCSTQ dùng để trấn áp nhân dân. Vậy ai là nguyên nhân lớn nhất tạo ra sự bất ổn tại Trung Quốc? Phải chăng chính là ĐCSTQ một chính quyền chuyên dùng bạo lực? ĐCSTQ là chủ mưu của rối loạn, và sau đó đến lượt nó lại dùng chính sự rối loạn nó tạo ra ấy để ép buộc người dân. Đây là những hành động thông thường của tất cả những tên côn đồ.
ĐCSTQ tự nhận “tính hợp pháp” của nó đối với sự phát triển kinh tế hơn 20 năm qua. Tuy nhiên trên thực tế sự phát triển này đã dần dần đạt được nhờ nhân dân Trung Quốc sau khi những gông cùm ĐCSTQ được nới lỏng một chút, do đó sự phát triển kinh tế không có liên quan gì đến công lao của chính ĐCSTQ. Dầu vậy, ĐCSTQ đã tuyên bố là sự phát triển kinh tế này là do thành tựu của chính nó và yêu cầu người dân phải biết ơn Đảng, như thể là sẽ không có một phát triển nào nếu không có ĐCSTQ. Trong thực tế tất cả chúng ta đều biết rằng có nhiều quốc gia phi cộng sản từ lâu đã thành công trong việc tăng trưởng kinh tế và còn nhanh chóng hơn. Khi giành được huy chương vàng tại thế vận hội Olympic, vận động viên bị buộc phải cám ơn Đảng. Đảng không ngần ngại sử dụng hình ảnh bày đặt “thể thao đại quốc” để tự ca tụng. Trung Quốc đã trải qua nhiều đau khổ trong bệnh dịch SARS, nhưng tờ Nhật báo Nhân dân đã báo cáo rằng Trung Quốc đã chiến thắng virus “dựa theo lý thuyết cơ bản, đường lối cơ bản, nguyên lý cơ bản và kinh nghiệm cơ bản của Đảng”. Việc phóng vệ tinh Thần Châu 5 của Trung Quốc đã được thực hiện bởi các chuyên gia khoa học và kỹ thuật, nhưng ĐCSTQ đã lấy đó làm bằng chứng để chứng minh rằng chỉ có ĐCSTQ mới có khả năng hướng dẫn người dân Trung Quốc bước vào hàng các quốc gia hùng mạnh của thế giới. Về việc Trung Quốc đăng cai thế vận hội Olympic năm 2008, thực ra các nước Tây phương ban cho Trung Quốc cái “cành Ô-liu” (biểu trưng của đề nghị hòa bình) để khuyến khích Trung Quốc cải thiện tình hình nhân quyền, ĐCSTQ dùng điều này để nâng cao những tuyên bố về tính hợp pháp của nó và để dùng như một cái cớ để trấn áp nhân dân Trung Quốc. “Tiềm năng thị trường lớn mạnh” của Trung Quốc có được nhờ vào các nhà đầu tư ngoại quốc, bắt nguồn từ năng lực tiêu thụ của 1,3 tỷ dân số của đất nước Trung Quốc. ĐCSTQ đã chiếm đoạt tiềm năng này, và rồi biến nó thành vũ khí sắc bén dùng để ép buộc xã hội phương Tây phải hợp tác với sự cai trị của ĐCSTQ. ĐCSTQ qui tội tất cả những thứ xấu cho các lực lượng phản động và động cơ ngầm của các cá nhân, trong khi đó nhận những gì tốt cho ban lãnh đạo Đảng. ĐCSTQ sẽ sử dụng mọi thành quả từng cái một để làm cho tuyên bố về tính hợp pháp của sự thống trị của nó có sức thuyết phục hơn. Ngay cả những việc làm sai mà ĐCSTQ phạm phải cũng được biến thành cái gì đó “tốt” để phục vụ các mục đích của nó. Ví dụ khi sự thật về sự lan tràn khủng khiếp của bệnh AIDS không còn che dấu được nữa, ĐCSTQ bất thần chế tạo ra luận điệu mới. Chúng khéo léo vận chuyển bộ máy tuyên truyền, sử dụng tất cả mọi người từ minh tinh nổi tiếng đến tổng bí thư Đảng để tô vẽ chân dung kẻ thủ phạm đầu sỏ, là ĐCSTQ, thành như là điều may mắn đối với bệnh nhân, là người tiêu diệt bệnh AIDS, người thách đấu với bệnh tật. Trong việc xử trí những vấn đề liên quan tới sống và chết nghiêm trọng như vậy, tất cả những gì ĐCSTQ có thể nghĩ đến là làm thế nào để sử dụng vấn đề đó để tự ca ngợi mình. Chỉ có ĐCSTQ mới có khả năng hành động nhẫn tâm, lưu manh chiếm đoạt và hoàn toàn không kể gì đến mạng sống con người. Hành vi thiển cận gây nên bất lợi kinh tế Đối mặt với “khủng hoảng về tính hợp pháp” nghiêm trọng, ĐCSTQ đã thực hiện các chính sách cải cách và mở cửa vào những năm 1980 để duy trì sự thống trị của nó. Sự háo hức thành công nhanh chóng đã đặt Trung Quốc vào một thế bất lợi mà những nhà kinh tế học gọi là “tai họa của kẻ đến muộn”. Những khái niệm “tai họa cho kẻ đến muộn” hay là “lợi thế cho kẻ đến muộn”, ám chỉ cho các nước kém phát triển, có nghĩa là sự phát triển được khởi công muộn, có thể bắt chước các nước tiên tiến trong nhiều mặt. Có hai hình thức băt chước: bắt chước hệ thống xã hội và bắt chước các mô hình kỹ thuật và công nghiệp. Thường thì bắt chước hệ thống xã hội là khó, vì cải tổ hệ thống có thể gây nguy hiểm đến quyền lợi tương lai của một số nhóm chính trị hay xã hội. Vì vậy các nước kém phát triển có khuynh hướng bắt chước kỹ thuật của các nước tiên tiến. Mặc dầu bắt chước kỹ thuật có thể tạo nên phát triển kinh tế nhất thời, nhưng nó có thể dẫn đến nhiều rủi ro tiềm ẩn hoặc thậm chí sự thất bại đối với mục tiêu phát triển dài hạn. Nó chính xác là cái “tai họa cho kẻ đến muộn”, một con đường thất bại, mà ĐCSTQ đang đi theo. Qua hai thập niên qua, “bắt chước kỹ thuật” của Trung Quốc đã thật sự dẫn đến một số thành tích mà ĐCSTQ đã dành phần về mình hầu để chứng minh “tính hợp pháp” của nó và tiếp tục ngăn cản cải cách chính trị mà có lẽ sẽ làm hại tới lợi ích riêng của ĐCSTQ. Vì vậy, lợi ích lâu dài của quốc gia đã bị hy sinh. Một cái giá đau đớn cho sự phát triển kinh tế của Trung Cộng Trong khi ĐCSTQ không ngừng khoe khoang về tiến bộ kinh tế của mình, trên thực tế, kinh tế Trung Quốc ngày nay đứng thứ hạng trên thế giới còn thấp hơn thời trị vì của Càn Long trong triều đại nhà Thanh. Trong thời của Càn Long, GDP của Trung Quốc được coi như bằng 51% tổng cộng toàn thế giới. Khi Tôn Trung Sơn thành lập nước Cộng hòa Trung Quốc (thời Quốc Dân Đảng), GDP của Trung Quốc bằng được khoảng 27% của tổng số thế giới. Vào 1923, tỷ lệ phần trăm giảm xuống, nhưng vẫn còn được 12%. Đến 1949, khi ĐCSTQ nắm chính quyền, tỷ lệ xuống đến 5.7%, nhưng đến 2003, GDP của Trung Quốc giảm xuống ít hơn 4% tổng số của thế giới. Tương phản với sự tụt dốc kinh tế trong thời kỳ Quốc Dân Đảng là vì phải trải qua nhiều niên kỷ chiến tranh thì sự tụt dốc kinh tế liên tục trong thời kỳ ĐCSTQ nắm quyền lại xảy ra trong thời bình. Ngày nay, để hợp pháp hóa quyền lực của mình, ĐCSTQ hăm hở muốn đạt thành công nhanh chóng và những lợi ích tức thời. Sự cải cách kinh tế khập khiễng mà ĐCSTQ đã phát động hầu để bảo vệ lợi ích riêng tư cho chính nó là một tổn thất lớn cho nước nhà. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng trong 20 năm qua, tới một phạm vi rộng, được xây dựng trên sự lạm dụng hoặc thậm chí lãng phí các nguồn tài nguyên, và đã đạt được với cái giá của sự tàn phá môi trường. Một phần đáng kể GDP của Trung Quốc đạt được bằng cách hy sinh những cơ hội của các thế hệ tương lai. Vào 2003, Trung Quốc đã đóng góp dưới 4% cho kinh tế thế giới, trong khi đó sắt, ximăng và những vật dụng khác được tiêu thụ bằng 1/3 tổng số tiêu thụ toàn cầu. [3] Từ thập niên 1980 đến cuối thập niên 1990, những vùng đất bị hoang hóa ở Trung Quốc tăng từ 1.000 đến 2.460 kí lô mét vuông. Đất trồng trọt cho mỗi đầu người cũng giảm sút từ 2 mẫu vào 1980 đến 1,43 mẫu vào 2003. [4] Sự bùng phát thu hồi/giải tỏa đất đai để phát triển (công nghiệp) lan rộng đã dẫn đến thất thoát 100 triệu mẫu đất để trồng trọt trong vòng chỉ vài năm. Tuy nhiên, thực tế tỷ lệ đất thu hồi được đem sử dụng chỉ là 43%. Hiện thời, tổng số lượng nước phế thải là 43,95 triệu tấn, vượt quá khả năng của môi trường 82%. Trong bảy hệ thống sông ngòi chính, 40,9% nước không còn dùng được cho người và súc vật uống. 75% mương hồ bị ô nhiễm nên đã sinh ra nhiều mức độ phú dưỡng trong nước. [5] Chưa bao giờ sự xung đột giữa người và thiên nhiên tại Trung Quốc lại căng thẳng như ngày ngày nay. Trung Quốc hay thế giới không tài nào cưỡng lại sự nguy hiểm gia tăng ấy. Bị che mắt bởi hào nhoáng bề mặt của các cao ốc và biệt thự, người dân không để ý đến sự khủng hoảng sinh thái đang treo lơ lửng. Tuy nhiên, một khi đến lúc thiên nhiên trừng phạt nhân loại, nó sẽ mang đến những hậu quả gây thảm khốc cho đất nước Trung Quốc. So sánh với Nga, từ sau khi rũ bỏ chế độ Cộng sản đã thực hiện cải cách kinh tế và chính trị cùng một lúc. Sau khi trải qua một khoảng thời gian khó khăn ngắn, Nga bắt đầu phát triển nhanh chóng. Từ 1999 đến 2003, GDP của Nga đã tăng tổng số được 29,9%. Mức sống người dân cũng được cải thiện đáng kể. Giới thương mại Tây phương đã không chỉ bắt đầu bàn luận “hiện tượng kinh tế Nga”, mà còn đã bắt đầu đầu tư vào Nga —một điểm nóng mới— trên phạm vi rộng. Thứ hạng của Nga trong các quốc gia hấp dẫn nhất để đầu tư đã nhảy từ vị trí thứ 17 vào 2002 đến vị trí thứ 8 trong 2003, lần đầu tiên trở thành một trong 10 nước hấp dẫn đầu tư nhất trên thế giới. Ngay cả Ấn độ, một nước mà trong tư tưởng của hầu hết người dân Trung Quốc là nghèo nàn và đầy những xung đột sắc tộc đã hưởng được sự phát triển vượt bậc và đạt được thành tựu phát triển kinh tế với tỷ lệ là 7-8% hằng năm từ khi cải cách kinh tế vào năm 1991. Ấn Độ có hệ thống pháp luật khá đầy đủ về kinh tế thị trường, một hệ thống tài chính dồi dào, một hệ thống dân chủ phát triển tốt, tâm thái nhân dân ổn định. Nước này đã được cộng đồng quốc tế công nhận là một nước có tiềm năng phát triển lớn. Tương phản lại, ĐCSTQ, chỉ tham gia vào cải cách kinh
tế mà không có cải cách chính trị. Bộ mặt kinh tế giả tạo nở rộ nhất thời
đã cản trở “sự phát triển các hệ thống xã hội” tự nhiên. Chính sự cải
cách không đầy đủ này đã gia tăng sự mất cân bằng trong xã hội Trung Quốc
và làm các mâu thuẫn xã hội càng thêm sâu sắc. Những lợi nhuận tài chính
mà nhân dân đạt được không được các hệ thống xã hội ổn định bảo vệ. Hơn
thế nữa, trong quá trình tư hữu hóa các tài sản nhà nước, những kẻ nắm
quyền hành trong ĐCSTQ đã lợi dụng quyền thế để nhét đầy vào túi riêng
của mình. ĐCSTQ dựa vào nông dân để đoạt quyền lực. Những người dân nông thôn trong các vùng Đảng trị, đã cống hiến tất cả những gì họ sở hữu cho ĐCSTQ từ lúc nó mới phôi thai. Nhưng sau khi ĐCSTQ nắm quyền lực quốc gia, những người nông dân đã trải qua sự đối xử phân biệt trầm trọng. Sau khi ĐCSTQ thành lập chính quyền, nó đã sắp xếp một hệ thống vô cùng bất công: đó là hệ thống đăng ký cư trú. Hệ thống này ép buộc chia người dân thành dân nông thôn (nông dân) và không nông thôn (dân thành thị), tạo ra một sự chia rẽ vô lý và chống đối trong nội bộ đất nước. Nông dân không có bảo hiểm sức khỏe, không có tiền trợ cấp thất nghiệp, không có tiền hưu trí và không được vay tiền ngân hàng. Người nông dân thuộc giai cấp bần cùng nhất tại Trung Quốc, nhưng lại cũng là giai cấp bị đánh thuế nặng nhất. Nông dân cần phải trả tiền cho quỹ tiết kiệm bắt buộc, quỹ phúc lợi xã hội, quỹ quản lý hành chánh, lệ phí giáo dục bổ xung, lệ phí kiểm soát sinh đẻ, lệ phí tổ chức và huấn luyện quân đội, lệ phí xây dựng đường quốc gia và lệ phí bồi thường phục vụ quân sự. Bên cạnh tất cả lệ phí này, họ còn phải bán một phần thóc lúa mà họ đã sản xuất theo một tỷ lệ cố định cho nhà nước như là một yêu cầu bắt buộc, và phải trả thuế nông nghiệp, thuế đất, thuế sản xuất vùng đặc biệt, thuế giết mổ và còn thêm vào nhiều thuế khác. Ngược lại dân cư thành thị không phải trả thuế và những lệ phí này. Vào đầu năm 2004, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã phát hành “hồ sơ số 1” nói rằng nông thôn Trung Quốc đang đối diện với tình thế khó khăn nhất từ khi cải cách kinh tế vào 1978. Thu nhập của hầu hết nông dân đã không tăng hoặc thậm chí còn xuống dốc. Họ càng nghèo hơn, và khoảng cách thu nhập giữa dân nông thôn và dân thành thị tiếp tục nới rộng ra. Trong một lâm trường ở phía đông tỉnh Tứ Xuyên, nhà chức trách cấp trên đã chi ra 500.000 nhân dân tệ (khoảng 60.500 đô la Mỹ) cho một chương trình tái trồng rừng. Những người lãnh đạo lâm trường trước hết bỏ túi 200.000 nhân dân tệ, rồi mới phân phối 300.000 nhân dân tệ còn lại để trồng rừng. Nhưng mỗi khi qua mỗi một cấp quản lý, số tiền lại bị thất thoát, cuối cùng chỉ còn lại một ít dành cho những nông dân trong vùng, những người thật sự trồng rừng. Chính quyền không cần phải lo lắng rằng những người nông dân sẽ từ chối làm việc vì tài chính không thỏa đáng. Những nông dân này quá nghèo đến nỗi họ phải làm việc với tiền công rẻ mạt. Cũng vì lý do này những sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc “made in China” rất rẻ. Dùng lợi ích kinh tế để làm áp lực các nước Tây phương Nhiều người tưởng rằng buôn bán với Trung Quốc sẽ thúc đẩy nhân quyền, tự do ngôn luận và cải cách dân chủ cho Trung Quốc. Sau hơn một thập niên, rõ ràng là giả định này chỉ là mơ tưởng. Một so sánh về nguyên tắc làm thương mại ở Trung Quốc và các nước Tây phương cho ta ví dụ điển hình: sự công bằng và rõ ràng của xã hội phương Tây được thay thế bởi những quan hệ cá nhân, hối lộ và biển thủ ở Trung Quốc. Nhiều công ty phương Tây đã trở thành thủ phạm hàng đầu vì đã làm trầm trọng thêm sự thối nát của Trung Quốc. Một số công ty thậm chí còn giúp ĐCSTQ dấu diếm những hành vi vi phạm nhân quyền và đàn áp chính người dân của nó. ĐCSTQ hành động như mafia bằng cách chơi ván bài kinh tế trong chính sách đối ngoại. Hợp đồng chế tạo máy bay của Trung Quốc sẽ được giao cho Pháp hay Mỹ còn tùy thuộc vào nước nào có thể ngậm miệng về vấn đề nhân quyền của ĐCSTQ. Có rất nhiều thương gia phương Tây và chính trị gia bị dẫn dắt và điều khiển bởi lợi nhuận kinh tế từ Trung Quốc. Một số công ty công nghệ thông tin từ Bắc Mỹ đã cung cấp các sản phẩm đặc biệt cho ĐCSTQ để phong tỏa Internet. Để được đi vào thị trường Trung Quốc, một số website Internet đã đồng ý tự kiểm duyệt mình và lọc đi tin tức mà ĐCSTQ không thích. Theo dữ kiện từ Bộ Thương Mại của Trung Quốc, vào cuối tháng 4, 2004, Trung Quốc đã thống kê được tổng cộng có 990 tỉ đô la Mỹ đầu tư từ nước ngoài vào trong nhiều hợp đồng khác nhau. “Sự thay máu lớn” cho kinh tế ĐCSTQ từ tiền vốn nước ngoài được lộ rõ. Nhưng trong quá trình đầu tư, ngoại tệ đã không mang đến khái niệm dân chủ, tự do và nhân quyền cho người dân Trung Quốc. ĐCSTQ đã lợi dụng sự truyền của nó với sự hợp tác vô điều kiện từ phía các nhà đầu tư, chính quyền ngoại quốc và sự xu nịnh của một số nước. Bằng cách lợi dụng sự thịnh vượng bề mặt của nền kinh tế Trung Quốc, các quan chức ĐCSTQ đã trở nên cực kỳ lão luyện trong việc cấu kết với các thương nhân để tranh phân chia tài sản quốc gia và gây trở ngại cho cải cách chính trị.
Người ta thường nghe nói rằng: “Tôi biết trong quá khứ ĐCSTQ hay dối trá, nhưng lần này nó nói sự thật”. Mỉa mai thay, hồi tưởng lại, đây là câu nói mà người dân nói mỗi lần ĐCSTQ tạo ra sai lầm nghiêm trọng trong quá khứ. Điều này phản ánh khả năng mà ĐCSTQ đạt được qua nhiều thập niên là dùng dối trá để lừa dối nhân dân. Người dân đã hình thành những kháng cự chống lại những lời hoang ngôn quá mức của ĐCSTQ. Để đáp lại, sự tuyên truyền và bịa đặt của ĐCSTQ đã trở nên “tinh vi” và “chuyên nghiệp” hơn. Xoay quanh những tuyên truyền theo kiểu khẩu hiệu trong quá khứ, những lời nói dối của ĐCSTQ đã trở nên càng “trau chuốt” và “tinh tế”. Đặc biệt dưới điều kiện phong tỏa tin tức mà ĐCSTQ đã thực hiện trên toàn Trung Quốc, nó đặt điều dựa trên một phần sự thật phiến diện để lừa dối cho dân chúng, những điều thậm chí còn có hại và dối trá hơn là những lời hoang ngôn quá mức. Chinascope (Trung Quốc Tụ Tiêu), tờ báo tiếng Anh, có viết một bài viết vào tháng 10, 2004 phân tích những trường hợp mà ĐCSTQ đã sử dụng những phương cách tinh vi để bịa đặt dối trá nhằm để che đậy sự thật. Khi vụ SARS bùng nổ tại lục địa Trung Quốc vào 2003, thế giới bên ngoài đã nghi ngờ Trung Quốc dấu diếm tin tức về dịch bệnh, và thậm chí ĐCSTQ đã lặp đi lặp lại nhiều lần từ chối thừa nhận nó. Để tìm hiểu ĐCSTQ có thành thật về báo cáo bệnh SARS hay không, tác giả của bài viết đã đọc tất cả trên 400 báo cáo về vụ SARS từ lúc khởi thủy đến tháng 4, 2003 trên website Tân Hoa. Những báo cáo này nói lên rằng: Ngay lúc SARS xuất hiện, chính quyền trung ương và các cấp địa phương đã huy động các chuyên gia kịp thời chữa bệnh cho các bệnh nhân những người sau đó đã lành bệnh và được xuất viện. Để đối phó với các thành phần gây rối kích động nhân dân đi mua sắm hàng hóa tích trữ nhằm tránh đi ra ngoài phòng khi bệnh dịch lan tràn, chính phủ đã lập tức chận đứng tin đồn và xúc tiến ngăn ngừa tin đồn lan rộng, như thế trật tự xã hội được ổn định tốt hơn. Mặc dầu vậy một số ít các lực lượng chống Trung Quốc đã vô cớ nghi ngờ chính quyền Trung Quốc che dấu sự thật, hầu hết các quốc gia và nhân dân không tin vào tin đồn này. Thị trường Chứng khoán Quảng Châu có sự tham gia lớn nhất chưa từng có của các doanh nghiệp trên khắp thế giới. Những người du lịch từ nước ng̣̣oài khẳng định rằng du lịch đến Trung Quốc rất an toàn. Đặc biệt, các chuyên gia từ Tổ Chức Sức Khỏe Thế Giới - WHO [những người đã bị lừa dối bởi ĐCSTQ], đã tuyên bố với công chúng rằng chính quyền Trung Quốc đã đang sẵn sàng phối hợp hoạt động và có biện pháp thích đáng để đối phó với SARS, vậy sẽ không có vấn đề gì. Và các chuyên gia đã phê chuẩn tỉnh Quảng Đông là hết dịch (sau hơn 20 ngày trì hoãn) sau khi đã công khai khảo sát. Trên 400 bài viết này đã cho tác giả một ấn tượng rằng ĐCSTQ rất trung thực trong suốt 4 tháng này và đã hành động một cách có trách nhiệm để bảo vệ sức khỏe nhân dân, và đã làm cho mọi người tin rằng ĐCSTQ đã không che dấu bất kể điều gì. Tuy nhiên, vào 20-4-2003, Văn Phòng Thông Tin của Hội Đồng Nhà Nước (Quốc vụ viện tân văn) đã thông báo trong buổi họp báo với các nhà báo rằng SARS đã thật sự lan tràn tại Trung Quốc và như vậy gián tiếp thừa nhận rằng chính quyền đã che đậy bệnh dịch. Chỉ khi ấy tác giả này mới thấy sự thật và hiểu các phương pháp “tiến bộ cùng thời gian” lưu manh và thủ đoạn mà ĐCSTQ sử dụng. Trong cuộc tổng tuyển cử ở Đài loan, ĐCSTQ, đã sử dụng cùng chiến thuật “trau chuốt” và “tinh tế”, đã tung tin rằng bầu cử tổng thống sẽ dẫn đến tai họa lớn: sự trào dâng của tỷ lệ tự sát, sự sụp đổ thị trưởng chứng khoán, “bệnh kỳ quặc” tăng trưởng, bệnh tâm thần, sự di dân ra khỏi đảo, gia đình bất hòa, thái độ nhẫn tâm với đời, thị trường suy thoái, bắn giết bừa bãi, biểu tình và chống đối, bao vây dinh thự tổng thống, xã hội mất an ninh, trò hề chính trị, v.v… ĐCSTQ đã nhồi vào trong đầu người dân lục địa Trung Quốc với những luận điệu này từng ngày, chủ tâm lèo lái nhân dân tin rằng tất cả những tai họa này là kết quả của bầu cử và Trung Quốc đừng nên bao giờ tổ chức bầu cử dân chủ. Về vấn đề Pháp Luân Công, ĐCSTQ đã thể hiện một tầng cấp kỹ xảo lừa gạt thậm chí còn cao cấp hơn để chụp mũ Pháp Luân Công. Những màn biểu diễn của ĐCSTQ nối tiếp nhau mà đến. Thảo nào mà quá nhiều người dân Trung Quốc bị lừa gạt. Sự tuyên truyền bẩn thỉu của ĐCSTQ quá dối trá đến nỗi nạn nhân của nó đã mù quáng tin vào những lời nói dối và nghĩ rằng họ đã biết sự thật. Sự tuyên truyền tẩy não của ĐCSTQ qua nhiều thập niên trong quá khứ đã trở nên “trau chuốt” và “tinh tế” trong việc lừa đảo, đó là sự bành trướng tự nhiên của bản chất lưu manh ĐCSTQ.
“Trong một quốc gia dân chủ, chủ quyền nằm trong tay người dân, phù hợp với nguyên lý của trời và đất. Nếu một quốc gia tuyên bố dân chủ mà chủ quyền không thuộc về người dân, điều đó dứt khoát là không đi đúng đường và chỉ có thể được coi là trệch hướng, và quốc gia này không phải là một quốc gia dân chủ… làm sao có được dân chủ mà không chấm dứt sự cai trị của Đảng và không có một cuộc bầu cử phổ thông? Trả lại nhân quyền cho nhân dân!” Có phải trích dẫn trên là từ một bài viết của “kẻ thù nước ngoài” để đả kích ĐCSTQ? Thực tế tuyên bố trên là từ tờ báo Tân Hoa Nhật Báo, tờ báo chính thức của ĐCSTQ, vào ngày 27-9-1945. ĐCSTQ từng tuyên bố ầm ỹ “bầu cử phổ thông” và đòi hỏi “trả lại nhân quyền cho nhân dân” nay lại đang xem “bầu cử phổ thông” như là một sự cấm đoán, bởi nó chiếm quyền lực. Những người dân được mệnh danh là “cai quản và làm chủ đất nước” không có bất cứ quyền nào để ra quyết định. Không có ngôn từ nào thích hợp để mô tả bộ mặt vô đạo đức của ĐCSTQ. Nếu bạn cho rằng những gì đã qua thì cho qua và giáo phái Trung Cộng tà ác đã từng gieo rắc giết chóc và cai trị đất nước bằng dối trá nay sẽ lại tự cải tổ và trở nên thiện lành và sẵn lòng “trả lại nhân quyền cho nhân dân”, bạn sẽ một lần nữa lầm to. Hãy nghe những gì tờ Nhật báo Nhân dân, cái loa chính của ĐCSTQ đã nói vào ngày 23/10/2004, 60 năm sau lời tuyên bố trước công chúng đã được trích dẫn trên: “Kiểm soát tư tưởng chặt chẽ là hệ tư tưởng cốt lõi và nền tảng chính trị để củng cố sự thống trị của Đảng”. Gần đây, ĐCSTQ đã đề xuất cái gọi là “nguyên tắc ba không”, [6] thứ nhất là “phát triễn không bàn luận”. Mục đích thật sự của Đảng Cộng sản Trung Quốc không phải là “phát triển” mà nó nhấn mạnh “không bàn luận”, hình thành “một tiếng nói, một hội trường”, thông tin một chiều. Khi Giang Trạch Dân được phỏng vấn bởi một phóng viên nổii tiếng, Mike Wallace, của đài CBS vào năm 2000, với câu hỏi tại sao Trung Quốc không tổ chức bầu cử dân chủ, Giang đã trả lời: “Người Trung Quốc học thức quá kém”. Tuy nhiên, ngay từ ngày 25/2/1939, ĐCSTQ đã gào thét trong tờ Tân Hoa Nhật báo “Họ (Quốc Dân Đảng) nghĩ rằng chính trị dân chủ tại Trung Quốc không nên được công nhận ngày nay mà là những năm sau. Họ hy vọng rằng vấn đề chính trị dân chủ nên đợi đến lúc sự hiểu biết và trình độ học vấn của người dân Trung Quốc đạt đến trình độ của các nước dân chủ tư sản như Châu Âu và Mỹ… nhưng, chỉ có dưới hệ thống dân chủ mới dễ dàng giáo dục và huấn luyện dân chúng”. Và sự khác biệt đạo đức giả giữa những gì Tân Hoa đã nói vào năm 1939 và những gì Giang Trạch Dân nói vào năm 2000 đã miêu tả sinh động sự thật về bộ mặt lưu manh của ĐCSTQ. Sau vụ Tàn Sát Thiên An Môn vào năm 1989, ĐCSTQ đã lại đứng trên vũ đài thế giới với một kỷ luc̣ nhân quyền đau đớn nhất. Lịch sử đã cho ĐCSTQ một cơ hội chọn lựa. Hoặc nó phải tôn trọng nhân dân mình và thực sự cải thiện nhân quyền hoặc nó cứ tiếp tục chà đạp nhân quyền bên trong nội địa Trung Quốc trong khi giả vờ với thế giới bên ngoài là tôn trọng nhân quyền để trốn tránh sự lên án của quốc tế. Bất hạnh thay, ĐCSTQ, luôn luôn giữ bản tính lưu manh, đã chọn con đường thứ hai mà không mảy may do dự. Nó đã duy trì và tập họp một số lớn nhân tài vô đạo đức trong các lĩnh vực khoa học và tôn giáo, và đã đặc biệt chỉ đạo họ dựng lên những tuyên truyền giả dối tại hải ngoại để thổi phồng lên sự tiến bộ về nhân quyền của ĐCSTQ. Nó bịa đặt một loạt những ngụy biện nhân quyền như “quyền sống còn”; hoặc là quyền nương tựa và thực phẩm. Lý lẽ biện hộ cho những ngụy biện này có kiểu như: Có phải khi người dân đói khát, họ không có quyền lên tiếng? Ngay cả nếu những người đói khát không thể lên tiếng được, vậy những người ăn uống no đủ có được phép lên tiếng cho những người đói khát không? ĐCSTQ thậm chí còn cố gắng lừa gạt nhân dân Trung Quốc và các nước dân chủ Tây phương bằng cách chơi các ván bài về nhân quyền, thậm chí rõ ràng tuyên bố rằng “hiện tại là thời kỳ tốt nhất về nhân quyền của Trung Quốc”. Nghị quyết 35 của Hiến pháp Trung Quốc qui định rằng người dân của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc được tự do phát biểu, xuất bản, nhóm họp, hội đoàn, biểu tình, và tuần hành. ĐCSTQ đơn thuần là chỉ chơi chữ mà thôi. Dưới sự thống trị của ĐCSTQ, vô số công dân bị tước đoạt đi quyền tự do tín ngưỡng, ngôn luận, xuất bản và hội họp. ĐCSTQ thậm chí có lệnh rằng việc đệ đơn thỉnh cầu lên cấp trên của một số nhóm người nhất định cũng bị xem là bất hợp pháp. Hơn một lần vào năm 2004, một số nhóm thường dân đệ đơn xin tuần hành tại Bắc Kinh. Thay vì chấp nhận cho phép, chính phủ lại bắt giam những người đệ đơn. Chính sách “một quốc gia, hai hệ thống” của Hồng Kông được phê chuẩn bởi hiến pháp của ĐCSTQ cũng là một thủ đoạn. ĐCSTQ tuyên bố rằng sẽ không có thay đổi tại Hồng kông trong vòng 50 năm, song nó đã cố đổi hai hệ thống thành một bằng cách cố tình thông qua một luật chuyên chế, là nghị quyết 23 vỏn vẹn trong vòng chỉ 5 năm kể từ khi Hồng Kông được trả về Trung Quốc. [7] Một mánh khóe mới thật nham hiểm được tận dụng bởi ĐCSTQ là “nới lỏng ngôn luận” giả tạo nhằm che lấp quy mô theo dõi và kiểm soát đồ sộ của nó. Người Trung Quốc ngày nay dường như nói lên tư tưởng mình tự do hơn và bên cạnh đó, mạng Internet cho phép tin tức lan rộng nhanh hơn. Như thế ĐCSTQ tuyên bố rằng bây giờ nó cho phép tự do ngôn luận và có rất nhiều người cũng nghĩ như vậy. Nhưng đó chỉ là một biểu hiện giả. Không phải ĐCSTQ trở nên tốt lành, mà là Đảng không thể ngăn chặn trào lưu phát triển xã hội và tiến bộ kỹ thuật. Chúng ta hãy xem xét ĐCSTQ đang đóng vai trò gì trong mạng Internet: Nó phong tỏa các website, gạn lọc tin tức, theo dõi phòng chat, kiểm soát email, và rồi buộc tội những người sử dụng mạng. Mỗi một điều nó làm đều từ bản tính có xu hướng thoái hóa. Ngày nay, với sự giúp đỡ của các nhà tư bản những người không quan tâm gì đến nhân quyền và lương tâm, cảnh sát ĐCSTQ đã được trang bị những thiết bị công nghệ cao để có thể theo dõi mọi hành động của những người dùng Internet từ bên trong những chiếc xe tuần tra. Khi chúng ta nhìn vào sự suy đồi của ĐCSTQ —phạm vào những hành động tà ác giữa thanh thiên bạch nhật— trong bối cảnh của phong trào hướng về tự do dân chủ toàn cầu, làm sao ta có thể mong rằng nó có tiến bộ trong nhân quyền? Chính ĐCSTQ đã nói toạc ra: “Nó nới lỏng bên ngoài nhưng thắt chặt bên trong”. Bản chất lưu manh của ĐCSTQ không bao giờ thay đổi. Để tạo lên một hình ảnh tốt đẹp cho chính mình tại Ủy Ban Liên Hiệp Quốc về nhân quyền, năm 2004 ĐCSTQ đã tổ chức một loạt các hoạt động trừng phạt nghiêm khắc những người lạm dụng nhân quyền. Tuy nhiên, những sự kiện này chỉ là dành riêng cho con mắt của những người ngoại quốc mà thôi và không có thực chất. Bởi vì kẻ lạm dụng nhân quyền lớn nhất tại Trung Quốc chính là ĐCSTQ cũng như cựu tổng bí thư Giang Trạch Dân, cựu bí thư Ủy ban pháp lý và chính trị Lỗ Cán, bộ trưởng Chu Vĩnh Khang và phó bộ trưởng Lưu Kinh của Bộ Công An. Sự trình diễn của chúng về trừng phạt những người lạm dụng nhân quyên cũng giống như một tên trộm đang hò hét: “Bắt tên trộm”. Hãy phân tích hành động của một tên hiếp dâm hàng loạt, khi còn có thể trốn khỏi tầm quan sát của công chúng, hắn thường là tấn công 10 cô gái trong một ngày. Sau đó, có quá đông người (không trốn được nữa), nên trước đám đông hắn chỉ tấn công một cô gái. Như vậy nói rằng hắn đã có thay đổi tốt hơn chăng? Từ việc hắn tấn công sau lưng đến tấn công trước công chúng chỉ chứng tỏ rằng tên vô lại này thật là còn đê tiện và trơ tráo hơn trước. Bản tính của tên vô lại không thay đổi chút gì cả. Những gì đã thay đổi là hoàn cảnh đã không còn dễ dàng cho hắn phạm tội nữa. ĐCSTQ cũng chỉ giống như tên hiếp dâm hàng loạt này.
Bản tánh độc tài của ĐCSTQ và nỗi sợ hãi mất quyền lực bẩm sinh của nó
quyết định rằng nó sẽ không tôn trọng nhân quyền. Con người, vật chất,
và các nguồn tài chính thường để làm tăng vẻ đẹp thành tích nhân quyền
của nó vượt quá xa các nỗ lực của nó nhằm cải thiện thật sự về nhân quyền.
Sự lưu manh của ĐCSTQ ở khắp nơi trên đất Trung Quốc là bất hạnh lớn nhất
cho nhân dân Trung Quốc. Để bảo vệ lợi ích của những nhóm có quyền lợi đặc biệt, ĐCSTQ một mặt xé tan bộ mặt cũ của chúng và hoàn toàn bỏ bê công nhân, nông dân, và quần chúng, mặt khác thăng tiến cùng thời gian các thủ đoạn lưu manh và dối trá đến nỗi sự lạm dụng nhân quyền của ĐCSTQ đã bị phơi bày ra cộng đồng quốc tế. ĐCSTQ đã sử dụng những ngôn từ quen thuộc như là “pháp trị”, “thị trường”, “vì dân”, và “cải cách” để làm loạn tâm trí nhân dân. ĐCSTQ không thay đổi bản tánh tà ác lưu manh của mình dù có tự khoác lên mình “bộ Âu phục”. Hình ảnh như vậy cũng chỉ càng đánh lạc hướng nhân dân hơn là khi ĐCSTQ khoác “bộ y phục của Mao”. Trong tác phẩm Trại gia súc của George Orwell (xuất bản năm 1945), các con heo học cách đứng và đi bằng hai chân. Kỹ năng mới có này đã tạo bộ mặt mới cho heo, nhưng nó không thay đổi được bản tính heo của chúng. A. Tạo ra các luật và qui định vi phạm Hiến pháp Trung Quốc Luật pháp và qui định phi hiến pháp đã được truyền xuống tới các nhân viên thực thi pháp luật tại nhiều tầng cấp như là “căn cứ pháp luật” để cản trở những nổ lực của nhân dân ngăn chặn đàn áp, đòi hỏi tự do và duy hộ nhân quyền. B. Đối phó với vấn đề phi chính trị bằng công cụ chính trị Một vấn đề xã hội bình thường sẽ được thổi phồng lên ngang hàng với “đấu tranh với Đảng để đoạt chính quyền”, “mang thảm họa cho Đảng và nhà nước”, “nổi loạn”, “lực lượng kẻ thù”. ĐCSTQ cố tình chính trị hóa vấn đề phi chính trị để có thể sử dụng các cuộc vận động chính trị như một công cụ tuyên truyền để kích động lòng thù hận của nhân dân. C. Các vấn đề chính trị được giải quyết bằng các thủ đoạn phi chính trị Mánh khóe mới nhất của ĐCSTQ dùng để tấn công các công dân tán thành dân chủ và các trí thức có tư tưởng độc lập là lập ra “những cái bẫy” nhằm cầm tù những người này. Những “cái bẫy” như vậy bao gồm tạo ra các tội dân sự như là chơi đĩ và trốn thuế. Kẻ tấn công giữ lại một hồ sơ nhỏ để tránh sự chỉ trích của các nhóm bên ngoài. Những tội này, đủ để hủy hoại thanh danh của kẻ bị tố cáo, cũng được dùng để làm nhục nạn nhân trước công chúng. Cái thay đổi duy nhất đối với bản chất lưu manh của ĐCSTQ, nếu có, là nó thậm chí còn trở nên nhục nhã và vô nhân đạo hơn mà thôi. Giam giữ hơn một tỉ người làm con tin: Nền văn hóa lưu manh của những tên côn đồ Hãy tưởng tượng một tên tội phạm dâm loạn đột nhập vào nhà và hãm hiếp một cô con gái. Trong lúc hầu tòa, tên tội phạm này tự bào chữa cho mình rằng hắn không giết nạn nhân; hắn chỉ hãm hiếp cô ta. Bởi vì giết người mang trọng tội hơn tội hiếp dâm, hắn tranh cãi rằng hắn vô tội và hắn cần được trả tự do lập tức. Hắn nói rằng nhân dân cũng nên ca ngợi hắn vì hắn chỉ có hiếp dâm nhưng không giết người. Lý luận này nghe có vẻ là lố bịch. Tuy nhiên, cái lô-gic của ĐCSTQ để biện hộ cho cuộc Tàn Sát Thiên Môn vào ngày 4/6/1989 là giống hệt như của tên tội phạm trên. ĐCSTQ đã tranh cãi rằng “đàn áp sinh viên học sinh” đã tránh được “nội loạn” tiềm tàng tại Trung Quốc. Để ngăn chặn “nội loạn”, nên “đàn áp sinh viên học sinh” đã được cho là có lý. “Hãm hiếp hay giết người, trường hợp nào tốt hơn?” Câu hỏi này của tên tội phạm chất vấn quan tòa chỉ có thể cho thấy tên tội phạm vô liêm sĩ đến cỡ nào. Tương tự như vậy, trong vấn đề Tàn Sát Thiên An Môn, ĐCSTQ và bọn hầu đoàn đã không suy nghĩ kỹ đó là tội trạng giết người hay không mà trái lại, chúng đã chất vấn xã hội cái nào tốt hơn, “đàn áp học sinh sinh viên hay nội loạn có thể dẫn đến nội chiến?” ĐCSTQ kiểm soát tất cả máy móc và phương tiện tuyên truyền trên toàn quốc. Nói một cách khác, một tỉ ba người dân Trung Quốc đang bị ĐCSTQ giữ làm con tin. Với một tỉ ba con tin nằm trong tay, ĐCSTQ luôn tranh cãi bằng “học thuyết con tin” của nó, rằng nếu nó không đàn áp một nhóm người nào đó, thì toàn bộ đất nước sẽ lâm vào cảnh rối loạn hay tai họa. Sử dụng điều này như một lý do, ĐCSTQ có thể thẳng tay đàn áp bất cứ cá nhân hay nhóm nào, và sự đàn áp của nó luôn luôn được cho là có lý. Đưa ra những tranh cãi lừa dối và lập luận sai lạc như thế, vậy thử hỏi còn có tên vô lại nào mà vô liêm sĩ hơn là ĐCSTQ không? Cà rốt và cây gậy – Từ ban tặng “tự do” đến leo thang đàn áp Nhiều người dân Trung Quốc cảm thấy rằng hiện tại họ đang hưởng nhiều “tự do” hơn trước, nên họ tỏ ra hy vọng cái triển vọng cải thiện của ĐCSTQ. Trên thực tế, mức độ tự do mà người dân được “ban tặng” còn tùy thuộc vào cảm nhận khủng hoảng của ĐCSTQ. Nó làm bất cứ điều gì để duy trì những lợi ích tập thể của Đảng, bao gồm cả ban bố cái gọi là dân chủ, tự do và nhân quyền cho nhân dân. Mặc dầu vậy, dưới quyền lãnh đạo của ĐCSTQ, cái gọi là “tự do” được ĐCSTQ ban cho không được bảo vệ bởi bất cứ pháp luật nào cả. Cái “tự do” ấy hoàn toàn chỉ là một công cụ để lừa dối và kiểm soát nhân dân trong xu hướng quốc tế hướng tới dân chủ. Thật ra, cái “tự do” này là một xung đột không thể hòa giải được với chế độ độc tài của ĐCSTQ. Một khi xung đột ấy vượt quá mức chịu đựng của ĐCSTQ, ĐCSTQ có thể lấy lại tất cả “tự do” trong chớp nhoáng. Trong lịch sử của ĐCSTQ, đã có nhiều thời kỳ khá là tự do ngôn luận, sau mỗi thời kỳ đó là một thời kỳ bị kiểm soát chặt chẽ. Các kiểu mẫu chu kỳ như thế được tiến hành trong suốt lịch sử của ĐCSTQ, chứng minh cho bản tính lưu manh của ĐCSTQ. Vào kỷ nguyên Internet ngày nay, nếu bạn viếng thăm website chính thức Tân Hoa hay tờ Nhân Dân Nhật Báo trực tuyến của ĐCSTQ, bạn sẽ thấy thật sự có vài báo cáo chứa đựng những tin tức tiêu cực về Trung Quốc. Đấy là vì, trước tiên, có quá nhiều tin xấu lan truyền nhanh chóng ở Trung Quốc thời buổi này, và các cơ quan tin tức phải báo cáo các tường thuật để lấy uy tín. Thứ hai, quan điểm của các bài báo cáo phải trùng hợp với quyền lợi Đảng, chẳng hạn như “phê bình nhỏ đem đến lợi ích lớn”. Các báo cáo phải luôn quy nguyên nhân của tin xấu cho những cá nhân nhất định nào đó, không dính dấp gì đến Đảng, trong khi phải ghi công sự lãnh đạo của ĐCSTQ cho bất cứ giải pháp nào. ĐCSTQ điều khiển khéo léo những gì cần phải báo cáo, những gì không nên, báo cáo bao nhiêu, và có nên để phương tiện truyền thông tại Trung Quốc hay hải ngoại mà ĐCSTQ kiểm soát báo cáo hay không. ĐCSTQ rất tài giỏi trong việc biến tin xấu thành những gì mà có thể đạt được kết quả mong muốn để chiếm lòng dân. Nhiều thanh niên tại lục địa Trung Quốc cảm thấy rằng ĐCSTQ hiện nay ban ra mức độ tự do ngôn luận khá tốt, và bởi thế mang hy vọng và khen ngợi ĐCSTQ. Họ đều là những nạn nhân của những chiến lược “đã được trau chuốt” của những phương tiện truyền thông lưu manh do nhà nước kiểm soát. Hơn thế nữa, bằng cách tạo nên một tình thế hỗn loạn để rồi phơi bày nó lên một số phương tiện thông tin, ĐCSTQ có thể thuyết phục nhân dân rằng chỉ có ĐCSTQ mới có thể kiểm soát một xã hội hỗn loạn và vì vậy có thể ép buộc dân chúng phải chấp hành theo luật lệ của nó. Bởi thế, chúng ta không nên lầm tưởng rằng ĐCSTQ tự nó đã thay đổi ngay cả khi chúng ta thấy được vài dấu hiệu cải thiện trong vấn đề nhân quyền của ĐCSTQ. Trong lịch sử, khi ĐCSTQ tranh đấu để lật đổ chính phủ Quốc Dân Đảng, nó đã giả vờ đấu tranh dành dân chủ cho đất nước. Bản tính lưu manh của ĐCSTQ cho thấy rằng mọi hứa hẹn của ĐCSTQ là không thể tin cậy được.
ĐCSTQ đã hô hào qua nhiều thập niên rằng “Chúng ta phải giải phóng Đài Loan” và “Thống nhất Đài Loan”. Với lời tuyên truyền này, ĐCSTQ làm như nó có tinh thần quốc gia và yêu nước. Có thật ĐCSTQ quan tâm đến sự toàn vẹn lãnh thổ? Không một chút nào. Đài Loan chỉ là một vấn đề lịch sử bởi cuộc đấu tranh giữa ĐCSTQ và Quốc Dân Đảng, đó là cách mà ĐCSTQ dùng để đánh thẳng vào địch thủ và để lấy lòng người dân. Trong những ngày đầu lập hội “Xô Viết Trung Quốc” vào thời cầm quyền của Quốc Dân Đảng – điều 14 của bản hiến chương có ghi “bất cứ nhóm dân hay tỉnh nào ở Trung Quốc đều có thể tuyên bố độc lập”. Để thỏa hiệp với Liên Xô, khẩu hiệu của ĐCSTQ lúc bấy giờ là “Bảo vệ Xô Viết”. Trong kháng chiến chống Nhật, mục tiêu tối thượng của ĐCSTQ là nắm lấy cơ hội để bành trướng thế lực hơn là đấu tranh với quân xâm lăng Nhật Bản. Vào năm 1945, Hồng Quân Xô Viết tràn vào miền Bắc Trung Quốc và đã phạm vào tội cướp bóc, chém giết và hãm hiếp, nhưng ĐCSTQ không hề thốt lên một lời phản đối. Tương tự như vậy, khi Liên Xô ủng hộ ngoại Mông Cổ được độc lập khỏi Trung Quốc, một lần nữa ĐCSTQ lại im lặng. Cuối năm 1999, ĐCSTQ và Nga đã ký bản hiệp ước Giám định Biên giới Nga-Trung, trong đó ĐCSTQ chấp nhận tất cả điều ước bất bình đẳng mà nhà Thanh và Nga đã được ký kết hơn 100 năm trước, và đã bán hơn một triệu kilômet vuông đất cho Nga, một vùng đất rộng hơn Đài Loan gấp mấy chục lần. Trong năm 2004, ĐCSTQ và Nga đã ký bản thỏa ước Thỏa hiệp bổ túc biên giới miền Đông, và theo đó thì đã mất một nửa chủ quyền của đảo Hắc Hạt Tử trong tỉnh Hắc Long Giang cho Nga. Về các vấn đề biên giới khác như chủ quyền về quần đảo
Nam Sa và đảo Điếu Ngư, ĐCSTQ không quan tâm chút nào vì nó không ảnh
hưởng đến quyền lực của Đảng. ĐCSTQ đã rầm rộ “Hợp nhất Đài loan”, đó
chỉ là đám khói bình phong và là phương tiện lưu manh để kích động lòng
yêu nước mù quáng và giữ cho công chúng không chú ý tới các mâu thuẫn
trong nội bộ. Một chính phủ phải luôn được giám sát. Trong những nước dân chủ, sự tách biệt giữa quyền lực với tự do ngôn luận và báo chí là một cơ chế tốt để giám sát. Các niềm tin tín ngưỡng cung cấp thêm sự tự kiềm chế về mặt đạo đức. ĐCSTQ tuyên truyền chủ nghĩa vô thần, bởi thế nó không có bản năng thánh thiện để kiềm chế về mặt đạo đức các hành vi của nó. ĐCSTQ cai trị độc tài, vì vậy không có luật lệ để ngăn cản nó về mặt chính trị. Hậu quả là ĐCSTQ hoàn toàn không lo lắng và không bị kiềm hãm khi nó hành động với bản chất lưu manh và bạo ngược. Theo ĐCSTQ thì ai giám sát Đảng? “Tự giác!” Đây là khẩu hiệu mà ĐCSTQ đã dùng để lừa dối nhân dân trong nhiều thập niên qua. Từ việc “Tự phê bình” trong thời gian đầu đến “tự giám sát”, “tự hoàn hảo khả năng lãnh đạo của Đảng” và gần đây “tự nâng cao khả năng quản lý của Đảng”. ĐCSTQ nhấn mạnh cái siêu năng lực gọi là “tự cải thiện”. ĐCSTQ không chỉ nói mà thật sự “hành động”, như là thành lập “Ủy Ban Kiểm Tra Kỷ Luật Trung Ương” và “Văn Phòng Kháng Cáo” và những cái tương tự như vậy. Các tổ chức này chỉ là “những bình hoa” đẹp nhưng vô dụng để mê hoặc và đánh lạc hướng thiên hạ. Không có kiềm chế về mặt pháp luật và đạo đức, “tự cải thiện” của ĐCSTQ cũng bằng như ”tự tâm sinh ma” theo như truyền thống người Trung Quốc đã nói. Đó chỉ là cái cớ mà ĐCSTQ dùng để tránh sự giám sát từ bên ngoài, từ chối khai phóng đảng, cấm tự do báo chí và tự do đảng phái chính trị. Bọn côn đồ chính trị dùng thủ đoạn này để lừa phỉnh nhân dân và đồng thời để bảo vệ sức mạnh của ĐCSTQ và lợi ích của nhóm cầm quyền. Lão luyện trong lưu manh chính trị là đặc trưng của ĐCSTQ.
“Nhân dân dân chủ chuyên chính”, “Dân chủ tập trung” , “Chính trị hiệp
thương” v.v… tất cả đều là các thủ đoạn lừa lọc. Ngoại trừ “Chuyên chính”
(tức là “độc tài”), còn tất cả đều là dối trá. ĐCSTQ luôn tuyên bố là đã dẫn dắt nhân dân Trung Quốc đánh bại quân xâm lược Nhật. Tuy nhiên, rất nhiều tư liệu lịch sử chứng tỏ rằng ĐCSTQ đã cố tình tránh giao tranh trong chiến tranh Trung – Nhật. ĐCSTQ chỉ cản trở nỗ lực chống Nhật bằng cách lợi dụng Quốc Dân Đảng tham gia chiến tranh để phát triển lực lượng của chính nó. Chỉ có hai trận chiến chính mà ĐCSTQ đã tham dự là “Chiến Dịch Bình Hình Quan” và “Đại Chiến Bách Đoàn”. Trong “Chiến Dịch Bình Hình Quan”, ĐCSTQ không phải là lãnh đạo hoặc quân chủ lực đã tham gia hay chỉ huy trận chiến gì cả. Thay vào đó, quân ĐCSTQ chỉ phục kích các đơn vị bổ xung của quân Nhật mà thôi. Còn trận thứ hai, nội bộ ĐCSTQ đã tin rằng tham dự vào cuộc chiến là vi phạm chính sách chiến lược của Đảng. Sau hai trận chiến, Mao và quân đội ĐCSTQ không tham dự vào trận chiến quan trọng nào cả, và cũng không tạo ra những anh hùng nào trong cuộc chiến Trung – Nhật như là Đổng Tồn Thụy trong cuộc chiến với Quốc Dân Đảng vào năm 1948 và Hoàng Kế Quan trong chiến tranh Triều Tiên. Chỉ có một số nhỏ chỉ huy cao cấp của ĐCSTQ đã chết trên chiến địa chống Nhật. Cho đến nay, thậm chí ĐCSTQ còn không thể báo cáo con số thiệt hại trong chiến tranh Trung - Nhật, cũng như là không một ai có thể tìm được những đài tưởng niệm anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến Trung - Nhật trên mảnh đất Trung Quốc rộng lớn. Cùng lúc đó ĐCSTQ đã thành lập “Chính phủ vùng biên giới” tại các tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh Hạ rất xa chiến địa. Dùng thuật ngữ hiện đại, ĐCSTQ đã thực hành “một quốc gia hai hệ thống”, hoặc “hai Trung Quốc” bên trong Trung Quốc. Mặc dầu các sĩ quan chỉ huy của ĐCSTQ không thiếu nhiệt tình chống lại quân Nhật, nhưng các thành viên cao cấp của ĐCSTQ đã không chân thật trong chiến tranh Trung - Nhật, mà trái lại đã dùng phương sách bảo tồn thực lực và lợi dụng chiến tranh như là cơ hội để tự tăng sức mạnh. Khi Trung Quốc và Nhật Bản nối lại quan hệ ngoại giao vào năm 1972, Mao Trạch Đông đã tiết lộ sự thật với Thủ tướng Nhật Kakuei Tanaka rằng ĐCSTQ phải cám ơn Nhật Bản, vì nếu không có chiến tranh Trung - Nhật, ĐCSTQ không thể nào nắm được quyền lực ở Trung Quốc. Đó là sự thật về tuyên bố giả dối của ĐCSTQ rằng nó đã lãnh đạo nhân dân Trung Quốc kiên trì tám năm kháng chiến chống Nhật và cuối cùng dành thắng lợi. Hơn nữa thế kỷ sau, với sự kiện khủng bố 11/9 tấn công trên đất Mỹ, nỗ lực chống khủng bố đã trở thành một tiêu điểm quốc tế. ĐCSTQ một lần nữa lại dùng quỷ kế lưu manh kiểu giả kháng Nhật. Giả dạng chống khủng bố, ĐCSTQ đã gán nhãn nhiều người theo tín ngưỡng, những nhân sĩ bất đồng chính kiến, các nhóm liên quan đến các xung đột lãnh thổ hay sắc tộc và quy cho họ là “khủng bố”. Trong chiêu bài chống khủng bố quốc tế, ĐCSTQ đã phát động nhiều cuộc trấn áp bạo lực. Ngày 27 tháng 9 năm 2004, Tân Hoa Xã đã trích từ báo Tân Kinh rằng Bắc Kinh có thể thành lập phòng chống khủng bố đầu tiên trong tất cả các tỉnh và thành phố tại Trung Quốc. Một số phương tiện truyền thông ủng hộ ĐCSTQ tại hải ngoại thậm chí còn đưa tin trên hàng đầu: “Phòng 610 tham gia chống khủng bố”, (‘Phòng 610’ là một một mạng lưới của các cơ quan chính phủ thành lập đặc biệt để khủng bố những học viên Pháp Luân Công), tuyên bố rằng phòng chống khủng bố sẽ tập trung tấn công “các tổ chức khủng bố”, bao gồm có Pháp Luân Công. ĐCSTQ dán nhãn hiệu “khủng bố” lên những người không
có vũ khí trong tay, không đánh trả lại khi bị đánh đập hay không nói
lại khi bị lăng mạ, là những người thỉnh nguyện ôn hòa cho quyền được
giữ niềm tin của họ. Lợi dụng xu thế chung là chống khủng bố, ĐCSTQ đã
điều động “lực lượng chống khủng bố đặc biệt”, được trang bị đến tận răng,
để chỉ đạo cuộc trấn áp nhanh chóng nhóm người hòa bình không phòng thủ
này (những học viên Pháp Luân Công). Hơn thế nữa, ĐCSTQ đã lợi dụng lý
do chống khủng bố để tránh dư luận và sự lên án của quốc tế về cuộc khủng
bố Pháp Luân Công của nó. Những cái giả dối được dùng ngày nay không khác
gì những cái được ĐCSTQ dùng trong chiến tranh Trung - Nhật và hành xử
như thế đối với một vấn đề nghiêm túc là các nỗ lực chống khủng bố quốc
tế thật là một điều đáng sỉ nhục ĐCSTQ không tin vào các học thuyết của chính nó nhưng lại ép buộc người khác phải tin vào chúng. Đây là một phương thức xảo quyệt nhất mà tà giáo ĐCSTQ đã dùng. Nó biết rằng những học thuyết của nó là sai lầm, và lý tưởng chủ nghĩa xã hội là không có thật. ĐCSTQ không tin vào những học thuyết này, nhưng lại ép buộc người khác phải tin vào chúng. Nó đàn áp những người không tin vào chúng. ĐCSTQ đã trơ tráo viết hệ tư tưởng giả dối như thế vào Hiến pháp như là nền tảng của quốc gia Trung Quốc. Trong cuộc sống thực có một hiện tượng rất thú vị. Nhiều quan lại cao cấp bị mất chức trong tranh giành quyền lực tại vũ đài chính trị Trung Quốc vì hủ bại. Nhưng đây lại chính là những người đã tuyên truyền sự chân thật và vô vị lợi trong các buổi họp công cộng, trong khi đó chúng ăn hối lộ, tham nhũng và có nhiều hoạt động suy đồi sau hậu trường. Nhiều cái gọi là “đầy tớ của nhân dân” đã sa ngã theo lối này, trong đó có Lý Gia Đình cựu tỉnh trưởng Vân Nam, Lưu Phương Nhân bí thư tỉnh ủy Quí Châu, Trình Duy Cao bí thư tỉnh ủy Hà Bắc, Điền Phượng Sơn bộ trưởng Bộ đất đai và tài nguyên, và Vương Hoài Trung phó tỉnh trưởng tỉnh An huy. Tuy nhiên nếu quý vị xem xét các bài diễn văn của chúng, quí vị sẽ thấy rằng, không có ngoại lệ nào, chúng đều ủng hộ các chiến dịch chống tham nhũng và lặp đi lặp lại thúc dục cấp dưới phải hành xử thật thà, dù rằng chính chúng biển thủ công quỹ và nhận hối lộ. Mặc dầu ĐCSTQ đã nâng đỡ những cán bộ gương mẫu và thường thu hút những người có lý tưởng và siêng năng gia nhập Đảng để nâng cao hình ảnh Đảng, nhưng tất cả mọi người đều thấy rõ tiêu chuẩn đạo đức đang tuột dốc không ngừng của đất nước Trung Quốc khốn khổ đáng khủng khiếp đến thế nào. Tại sao cái tuyên truyền về “văn minh tinh thần” của ĐCSTQ không khởi tác dụng sửa chữa điều này? Sự thật, các lãnh đạo Đảng đã truyền những lời trống rỗng khi chúng phổ biến “phẩm chất đạo đức chủ nghĩa cộng sản” hay “phục vụ nhân dân”. Sự không nhất quán giữa hành động và lời nói của các lãnh đạo cộng sản có thể được truy nguyên từ người cha sáng lập của chúng, từ Các-Mác trở đi. Mác có một đứa con hoang; Lê-nin bị bệnh giang mai từ gái điếm; Xta-lin bị kiện vì cưỡng ép một ca sĩ quan hệ tình dục; Mao Trạch Đông đắm sâu vào dục vọng; Giang Trạch Dân dâm loạn; dòng tộc của Ceausescu, thủ lãnh cộng sản Romania, được giàu có một cách bẩn thỉu cũng nhờ y; Cát-xtrô, thủ lãnh Cuba vơ vét hàng trăm triệu đô la gửi nhà băng nước ngoài; Kim Il Song, con quỉ giết người của Bắc Hàn, cùng với con cái sống trong trụy lạc và phung phí. Trong cuộc sống hàng ngày, dân chúng Trung Quốc chán ghét các buổi học tập chính trị rỗng tuếch. Dần dần, họ nói lập lờ về các vấn đề chính trị, vì mọi người đều biết tất cả chúng đều là những trò lừa bịp. Nhưng không một ai, từ người phát biểu lẫn người nghe trong các buổi họp chính trị này, dám nói thẳng về sự dối trá ấy. Đây là một bí mật mở. Người ta gọi hiện tượng đó là “thành thật giả vờ”. ĐCSTQ đã cao giọng “ba đại biểu” vài năm trước đây, sau đó “cải thiện khả năng điều hành”, và “ba trái tim” của ngày ngày nay—“nồng nhiệt, ổn định và được lòng dân”—tất cả đều rỗng tuếch. Đảng cầm quyền nào mà không đại diện cho lợi ích nhân dân? Đảng cầm quyền nào mà không quan tâm đến khả năng điều hành? Đảng cầm quyền nào mà không lấy lòng dân? Bất cứ đảng nào mà không quan tâm đến những vấn đề đó sẽ sớm bị đào thải khỏi chính trường. Nhưng ĐCSTQ lại xem các khẩu hiệu thừa ấy như thể học thuyết tinh thâm và sâu sắc và yêu cầu toàn đất nước nghiên cứu chúng. Khi sự giả vờ đã dần dần đóng khuôn vào suy nghĩ và thói quen của cả tỷ người và đã trở thành văn hóa đảng, xã hội tự nó trở thành giả dối, phóng đại, và không hồn. Thiếu tính lương thiện và lòng tin, xã hội sẽ ở trong khủng hoảng. Tại sao ĐCSTQ lại tạo ra những điều kiện như thế này? Trong quá khứ nó là vì lý tưởng nhưng nay vì ích lợi của nó. Thành viên ĐCSTQ biết chúng là giả vờ nhưng họ vẫn cứ giả bộ. Nếu ĐCSTQ không tuyên truyền các biểu ngữ và hình thức ấy, nó sẽ không thể đe dọa nhân dân. Nó sẽ không thể bắt nhân dân theo và sợ nó. Từ bỏ lương tâm và hy sinh công lý vì lợi ích của đảng Trong cuốn sách “Phát triển đạo đức Đảng cộng sản”, Lưu Thiểu Kỳ [8] đặc biệt nhấn mạnh về sự cần thiết “gộp lợi ích cá nhân của đảng viên với lợi ích Đảng làm một”. Trong các thành viên ĐCSTQ không thiếu những người chân chính, họ quan tâm đến đất nước và đồng bào, cũng không thiếu những người trung thực và liêm khiết thực sự phục vụ nhân dân. Nhưng trong guồng máy tư lợi cho đảng, những người này không thể tồn tại. Dưới áp lực không ngừng nhằm đạt được “nhân tính phục tùng đảng tính”, họ thường là không thể tiếp tục, bị cách chức, hay tệ hơn nữa là bị thối nát. Nhân dân Trung Quốc đã qua trải nghiệm từng cá nhân và đã cảm nhận sâu sắc chế độ tàn bạo của ĐCSTQ và đã hình thành nỗi khiếp sợ thấm sâu trong người vì bạo lực của ĐCSTQ. Bởi thế người dân không dám bênh vực chính nghĩa, cũng không tin vào công lý. Đầu tiên họ phục tùng quyền lực đảng, dần dần họ trở lên vô cảm hay không thắc mắc về những gì không liên quan đến bản thân họ. Ngay cả tư duy của họ cũng đã bị đóng khuôn để phục tùng quyền lực đảng. Đây là kết quả của bản chất mafia lưu manh của ĐCSTQ. “Chủ nghĩa yêu nước” — hiệu lệnh tà giáo nhằm tổng động viên khẩn cấp toàn quốc ĐCSTQ sử dụng những khẩu hiệu “chủ nghĩa yêu nước” và “chủ nghĩa dân tộc” để kích động nhân dân. Đó không những là những lời kêu gọi tập hợp chính yếu của ĐCSTQ mà còn là những mệnh lệnh được ban ra thường xuyên và là những chiến lược đã được thử nghiệm qua thời gian. Những Hoa kiều từ nhiều thập niên không dám về sinh sống tại quê nhà khi đọc những tuyên truyền về chủ nghĩa dân tộc của tờ báo Nhân Dân Nhật Báo tại hải ngoại, họ có thể trở nên ái quốc hơn người dân sống trong nước. Bị ĐCSTQ thao túng, những người dân Trung Quốc, những người không dám nói “không” với bất cứ một chính sách nào của ĐCSTQ, lại trở lên đủ “dũng cảm” để gây giông bão cho Đại sứ quán và Tòa lãnh sự Hoa kỳ tại Trung Quốc, ném trứng, đá, đốt xe và cờ Mỹ, tất cả đều dưới ngọn cờ “chủ nghĩa yêu nước”. Mỗi khi Đảng Cộng Sản gặp vấn đề quan trọng cần người dân phải tuân theo, nó lại sử dụng “chủ nghĩa yêu nước” và “chủ nghĩa dân tộc” làm phương thức để khẩn cấp động viên dân chúng. Trong tất cả các trường hợp, bao gồm cả những vấn đề liên quan tới Đài loan, Hồng Kông, Pháp Luân Công, va chạm giữa máy bay gián điệp Mỹ và phản lực chiến của ĐCSTQ—ĐCSTQ đều đã sử dụng phương pháp trộn lẫn giữa gây kinh hãi khủng khiếp và tẩy não tập thể, vì thế mang lại cho nhân dân trạng thái tâm trí giống như đang trong chiến tranh. Phương pháp này tương tự như cái đã được phát xít Đức sử dụng. Bằng cách ngăn chặn tất cả tin tức khác, sự tẩy não của ĐCSTQ đã thành công một cách kinh ngạc. Mặc dù nhân dân Trung Quốc không thích ĐCSTQ nhưng họ suy nghĩ theo cách méo mó đã được ĐCSTQ thấm nhuần vào. Ví dụ, trong chiến tranh Mỹ – Irag nhiều người dân được kích thích theo dõi sự phân tích hàng ngày trên kênh truyền hình CCTV [9]. Họ cảm thấy một lòng căm thù, lòng mong báo thù, và mong muốn chiến đấu mạnh mẽ, trong khi cùng lúc đó lại nguyền rủa cuộc chiến khác. Vô liêm sỉ — Đặt Đảng trước đất nước và bắt nhân dân nhận giặc làm cha Một trong những cụm từ mà ĐCSTQ thường dùng để đe doạ nhân dân là “mất Đảng mất nước”, theo cách đó đặt Đảng trước đất nước. Nguyên tắc thành lập của Trung Quốc là “Sẽ không có nước Trung Quốc mới nếu không có ĐCSTQ”. Từ thủa sơ sinh, người dân đã được giáo dục “vâng lời Đảng” và “nhi đồng ngoan của Đảng”. Họ hát ca tụng Đảng: “Tôi xem Đảng như mẹ tôi”, “Ôi, Đảng, mẹ yêu quí của tôi”, “Ơn Đảng sâu hơn biển cả”, “Yêu cha mẹ không bằng yêu Đảng”. [10] Họ sẽ “hăng say chiến đấu bất cứ nơi nào Đảng chỉ định”. Khi chính phủ cứu trợ thảm hoạ, dân chúng phải “cám ơn Đảng và chính phủ”—trước tiên là Đảng sau mới tới chính phủ. Khẩu hiệu quân đội là “Đảng chi huy nòng súng”. Ngay cả khi các nhà chuyên gia vẽ mẫu đồng phục cho các quan tòa, họ gắn bốn khuy vàng trên cổ áo đồng phục. Những khuy này từ trên xuống dưới để tượng trưng cho Đảng, nhân dân, luật pháp và tổ quốc. Nó có nghĩa là mặc dù anh là quan tòa, Đảng sẽ vĩnh viễn vẫn được đặt trên luật pháp, đất nước, và nhân dân. Đảng đã trở thành tối thượng tại Trung Quốc, và đất nước trở thành phụ thuộc Đảng. Đất nước tồn tại vì Đảng, và Đảng được cho là hiện thân của nhân dân và là biểu tượng cho đất nước. Yêu Đảng, yêu lãnh tụ Đảng, và yêu nước bị trộn lẫn vào nhau, đó là nguyên nhân chính tại sao lòng yêu nước ở Trung Quốc đã bị méo mó. Dưới sự tác dụng tinh vi nhưng không ngừng của giáo dục
và tuyên truyền của ĐCSTQ, rất nhiều người, Đảng viên hay không, đã bắt
đầu nhầm lẫn Đảng với đất nước, cho dù họ có ý thức được hay không. Họ
đã chấp nhận rằng “quyền lợi của Đảng” là tối thượng hơn tất cả, và đồng
ý rằng “lợi ích Đảng ngang hàng với lợi ích nhân dân và đất nước”. Kết
quả của sự giáo dục tuyên truyền này của ĐCSTQ đã tạo nên một môi trường
để ĐCSTQ phản bội lợi ích quốc gia. ĐCSTQ đã tạo nhiều sai lầm trong lịch sử. Nhưng nó lại luôn đổ lỗi cho một số cá nhân hay các nhóm nào đó qua “khôi phục và phục hồi” (bình phản). Điều này làm cho nạn nhân không những mang ơn Đảng sâu sắc mà còn cho phép Đảng hoàn toàn trốn tránh khỏi bất kỳ trách nhiệm nào mà các hành động phạm tội của nó gây ra. ĐCSTQ tự tuyên bố là “không những không sợ phạm lỗi, mà còn giỏi sửa lỗi” [11], và điều này đã trở thành ma dược kỳ diệu của ĐCSTQ mà nhờ đó đã thoát tội nhiều lần lặp đi lặp lại. Bởi thế, ĐCSTQ luôn mãi “vĩ đại, quang vinh và chính xác”. Có thể có một ngày, ĐCSTQ sẽ quyết định khôi phục lại vụ Tàn Sát Thiên An Môn và phục hồi danh dự cho Pháp Luân Công. Nhưng tất cả đó chỉ là những thủ đoạn lưu manh mà ĐCSTQ sử dụng nhằm gắng sức dùng kéo dài cuộc sống hấp hối của nó. ĐCSTQ sẽ không bao giờ can đảm nhìn lại chính nó, để phơi bày các tội ác của chính nó, và để trả nợ cho các tội lỗi của chính nó.
Vụ lừa gạt “Tự thiêu tại Thiên An Môn” do tà giáo ĐCSTQ dàn dựng có thể xem như là lời dối trá tầm cỡ thế kỷ của ĐCSTQ. Để đàn áp Pháp Luân Công, chính quyền đã bại hoại đến nỗi dụ dỗ năm người dân giả làm học viên Pháp Luân Công trình diễn màn tự thiêu giả tạo tại quảng trường Thiên An Môn. Bằng cách thông đồng với mưu đồ bất lương này, năm người tham gia đã vô ý ký vào bản án tử hình của chính họ và kết quả là hoặc đã bị đánh chết trên hiện trường hoặc bị giết sau đó. Khi xem tua chậm cuốn phim video tự thiêu do chính CCTV phát hành có thể thấy rõ rằng Lưu Xuân Linh, một trong số người tự thiêu, bị cảnh sát đánh chết ngay tại chỗ. Các lỗi đóng kịch khác trong phim bao gồm cách ngồi của ông Vương Tiến Đông, chai nhựa (được coi là đã chứa đầy xăng) còn nguyên vẹn giữa hai đầu gối của ông sau khi ngọn lửa được dập tắt, cuộc đối thoại giữa một bác sĩ và nạn nhân trẻ nhất, bé Lưu Tư Ảnh, và sự hiện diện sẵn sàng của các phóng viên quay phim để quay phim hiện trường. Những sự thực này và còn nhiều hơn nữa đã đủ là chứng cớ để chứng minh rằng biến cố tự thiêu chính là một sự dối trá được thiết kế một cách hiểm độc bởi chế độ Giang Trạch Dân nhằm chụp mũ Pháp Luân Công. [12] ĐCSTQ đã sử dụng những phương pháp tàn bạo và ti tiện trong chiến dịch đã tuyên bố của nó nhằm loại bỏ Pháp Luân Công. Nó đã chiếm lấy những tài nguyên tài chính của quốc gia tích lũy được trong 20 năm cải cách và mở cửa. Nó đã huy động Đảng, chính phủ, quân đội, cảnh sát, gián điệp, các nhà ngoại giao nước ngoài, và nhiều tổ chức chính phủ và phi chính phủ khác. Nó đã thao túng các hệ thống phương tiện truyền thông trên toàn cầu, thi hành ngăn chặn thông tin chặt chẽ bằng cách theo dõi kỹ thuật cao và cá nhân. Nó đã làm tất cả những điều này để khủng bố một nhóm người hòa bình tu luyện theo Pháp Luân Công, một cách rèn luyện khí công Trung Quốc truyền thống để làm tinh khiết thân thể, tâm trí và đặc tính đạo đức theo các nguyên lý Chân Thiện Nhẫn. Sự khủng bố tàn bạo như vậy lên những người vô tội chỉ vì niềm tin của họ phơi bày ra bản chất suy đồi của ĐCSTQ. Trong lịch sử chưa từng có bọn lưu manh vô lại nào mà dối trá một cách âm thầm và rộng khắp như Giang Trạch Dân và ĐCSTQ. Chúng dùng mọi hình thức dối trá, mỗi hình thức được thiết kế để nhắm vào và thao túng các khái niệm và quan niệm mà nhân dân đang mang để nhân dân có thể dễ dàng bị lừa bịp tin vào những lời dối trá, và Đảng có thể kích động lòng căm ghét Pháp Luân Công. Bạn tin vào khoa học chăng? ĐCSTQ bảo rằng Pháp Luân Công mê tín dị đoan. Bạn ghét chính trị chăng? ĐCSTQ nói rằng Pháp Luân Công làm chính trị. Bạn muốn giàu có chăng? ĐCSTQ bảo Pháp Luân Công đang thu góp của cải. Bạn phản đối đoàn thể chăng? ĐCSTQ nói rằng Pháp Luân Công là một đoàn thể có tổ chức chặt chẽ. Bạn chán nản sự sùng bái cá nhân đã kéo dài trong nhiều thập niên ở Trung Quốc chăng? ĐCSTQ nói rằng Pháp Luân Công tiến hành khống chế tinh thần. Bạn là người yêu nướcchăng? ĐCSTQ nói rằng Pháp Luân Công chống lại Trung Quốc. Bạn sợ rối loạn chăng? ĐCSTQ bảo rằng Pháp Luân Công phá hoại sự ổn định. Bạn tự hỏi rằng Pháp Luân Công có thực sự giữ vững Chân Thiện Nhẫn chăng? ĐCSTQ nói rằng Pháp Luân Công không chân thật, không thiện lành, không nhẫn nhục. Nó thậm chí còn bóp méo lô-gic, tuyên bố rằng thiện có thể sinh ra lòng ham muốn sát sanh. Bạn tin rằng chính phủ không đặt điều dối trá như vậy? ĐCSTQ có thể tạo ra những dối trá còn to tát và gây sốc hơn nữa, từ tự sát đến tự thiêu, từ giết họ hàng đến giết người hàng loạt—quá nhiều điều dối trá đến nỗi bạn cảm thấy rằng khó mà tin được. Bạn thông cảm với Pháp Luân Công chăng? ĐCSTQ gắn kết sự nhìn nhận chính trị của bạn với sự khủng bố Pháp Luân Công, và giáng chức bạn, đuổi việc, hoặc cắt tiền thưởng của bạn nếu học viên Pháp Luân Công tại khu vực trách nhiệm của bạn đi thỉnh nguyện ở Bắc kinh. Vì thế, bạn sẽ bị bắt phải trở thành kẻ thù của Pháp Luân Công. ĐCSTQ đã bắt cóc vô số học viên Pháp Luân Công và đưa họ đi dự các lớp tẩy não trong nỗ lực cưỡng bức họ phải từ bỏ niềm tin của mình, phản đối Pháp Luân Công và phải hứa là không tập luyện nữa. ĐCSTQ dùng cách tà ác để thuyết phục họ, bao gồm cả việc sử dụng họ hàng thân quyến, việc làm và “giáo dục” để gây áp lực lên họ, hành hạ họ bằng nhiều hình thức tra tấn dã man và ngay cả trừng phạt luôn cả các thành viên trong gia đình và đồng nghiệp của họ. Các học viên Pháp Luân Công đã bị tẩy não thành công đến lượt lại bị sử dụng để tra tấn và tẩy não những người khác. ĐCSTQ ác độc một mực biến người tốt thành ma quỷ và ép buộc họ đi con đường đen tối tới tận cuối đời.
Ngôn từ “Màu sắc Trung Quốc” được dùng để che đậy các tội ác của ĐCSTQ. ĐCSTQ luôn tuyên bố tất cả rằng nó thành công trong cách mạng của Trung Quốc là nhờ “kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với thực tiễn cụ thể của cách mạng Trung Quốc”. ĐCSTQ thường xuyên lạm dụng ngôn từ “Màu sắc” như một sự hỗ trợ về tư tưởng cho các chính sách lưu manh và thất thường của nó. Các thủ đoạn dối trá và phản phúc vô thường Dưới bề ngoài giả dối “Màu sắc Trung Quốc”, những gì mà ĐCSTQ đạt được là vô nghĩa và lố bịch. Lý tưởng cách mạng của ĐCSTQ là thực hiện quyền sở hữu công cộng đối với các phương tiện sản xuất, và nó đã lừa dối nhiều người trẻ tuổi gia nhập tổ chức Đảng vì lý tưởng cộng sản và đoàn kết. Nhiều người đã phản bội dâng tài sản của gia đình mình cho ĐCSTQ. Nhưng sau 83 năm thành lập, chủ nghĩa tư bản đã trở lại, chỉ bất quá là bây giờ nó [chủ nghĩa tư bản] đang trở thành một phần của chính ĐCSTQ, kẻ mà ban đầu giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa bình đẳng. Ngày nay, trong các con cái và họ hàng của các nhà lãnh đạo Đảng, nhiều người là tư bản mới giàu có, và nhiều đảng viêng đan gắng hết nổ lực tham gia vào nhóm mới phất này. ĐCSTQ đã tiêu diệt các địa chủ và các nhà tư sản với danh nghĩa cách mạng và cướp đoạt tài sản họ. Giờ đây, “hoàng tộc” mới của ĐCSTQ thậm chí còn giàu hơn nhờ biển thủ và tham nhũng. Những người đã theo Đảng từ đầu cuộc cách mạng bây giờ thở dài “Nếu tôi biết tình trạng như ngày nay thì tôi đã không theo nó”. Sau nhiều thập niên đấu tranh và đổ mồ hôi, nay họ mới tự biết là họ đơn thuần chỉ là hiến dâng tất cả tài sản của cải của ông cha để lại và cả mạng sống của chính mình cho tà giáo Trung Cộng. ĐCSTQ nói về nền tảng kinh tế xác định thượng tầng kiến trúc [13]; trên thực tế, đó là nền tảng kinh tế quan liêu của các viên chức tham nhũng của ĐCSTQ quyết định “thượng tầng kiến trúc cao áp” - một thượng tầng kiến trúc dựa trên các áp lực cao để tồn tại. Áp bức nhân dân vì thế đã trở thành một chính sách căn bản của ĐCSTQ. Một đặc tính lưu manh khác của ĐCSTQ biểu hiện trong việc việc thay đổi định nghĩa của các khái niệm về văn hóa, và sau đó dùng chính các định nghĩa đã sửa này để phê phán và kiểm soát dân chúng. Khái niệm “đảng” là một ví dụ như vậy. Từ lúc khởi thủy, nhiều đảng được thành lập trên toàn thế giới. Chỉ có Đảng Cộng Sản thực thi quyền hành vượt quá phạm vi tập thể đảng. Nếu bạn gia nhập Đảng, nó sẽ quản lý tất cả mọi khía cạnh cuộc đời bạn, bao gồm lương tâm, phương tiện sinh sống, cuộc đời riêng tư. Trong khi cầm quyền, ĐCSTQ quản lý xã hội, chính phủ và bộ máy nhà nước. Nó sai khiến mọi vấn đề từ việc quan trọng như ai sẽ là Thủ tướng của đất nước, hay Bộ trưởng quốc phòng, hay lập ra những qui định luật lệ gì, đến những việc nhỏ nhất như một người nên sống ở đâu, nên kết hôn với ai, và bao nhiêu con cái một người có thể có. ĐCSTQ đã tập trung mọi biện pháp mà nó có thể hình dung được để kiểm soát. Dùng danh nghĩa của phép biện chứng ĐCSTQ đã phá hủy
hoàn toàn những tư tưởng thiêng liêng, khoa học lý luận, và việc tìm tòi
tinh thần của triết học. Trong khi ĐCSTQ nói về “phân phối tùy theo sự
đóng góp”, tiến trình “cho phép một số người được giàu có trước” lại được
thành công nhờ “phân phối theo quyền lực”. ĐCSTQ sử dụng sự ngụy trang
“hết lòng phục vụ nhân dân” để lừa dối những ai đeo đuổi lý tưởng này,
sau đó hoàn toàn tẩy não và kiểm soát họ, dần dần biến họ thành các công
cụ dễ sai khiến để “hết lòng phục vụ Đảng” và họ không dám lên tiếng cho
nhân dân. Sử dụng nguyên tắc là coi trọng quyền lợi Đảng vượt trên mọi thứ khác, ĐCSTQ đã bóp méo xã hội Trung Quốc bằng các thủ đoạn của một tà giáo, sáng tạo nên một loại người lố bịch thật sự trong toàn xã hội nhân loại. Loại người này khác với bất cứ các nước, các chính quyền, hay tổ chức nào khác. Nguyên tắc của nó là không có nguyên tắc nào cả, không có sự chân thật đằng sau nụ cười của nó. Bởi thế người lương thiện không tài nào hiểu nổi ĐCSTQ. Dựa trên tiêu chuẩn đạo đức của vũ trụ, họ không thể tưởng tượng được rằng lại có một thực thể tà ác như vậy đại diện cho một quốc gia. Sử dụng cái cớ “Màu sắc Trung Quốc” ĐCSTQ đã tự hình thành lên chính nó trong các quốc gia trên thế giới. “Màu sắc Trung Quốc” đã trở thành chữ viết tắt cho “Màu sắc lưu manh ĐCSTQ”. Với “Màu sắc Trung Quốc”, chủ nghĩa tư bản khập khiễng
của Trung Quốc đã biến thành “chủ nghĩa xã hội”; “thất nghiệp” trở thành
“chờ việc làm”; “bị sa thải” thành “không phận sự”; “nghèo đói” trở thành
“giai đoạn bắt đầu của chủ nghĩa xã hội”; và nhân quyền, tự do ngôn luận,
và tự do tín ngưỡng đã bị hạ cấp thành chỉ là quyền sống còn. Từ đầu những năm 1990, có câu nói truyền tụng ở Trung Quốc rằng “Tôi là tên côn đồ và tôi không sợ ai cả”. Đó là kết quả đau thương dưới sự cai trị của ĐCSTQ qua nhiều thập niên dùng sự lưu manh để trị quốc. Song song với nền kinh tế thịnh vượng giả tạo của Trung Quốc là nền đạo đức suy đồi tuột dốc nhanh chóng trong mọi lãnh vực của xã hội. Các đại biểu quốc hội Trung Quốc luôn nói về “thành thật và tin tưởng” trong Quốc Hội Nhân Dân Trung Quốc. Trong các bài thi vào đại học, học sinh buộc phải viết về “thành thật và tin tưởng”. Điều này biểu thị sự thiếu hụt thành thật và tin tưởng, và sự tụt dốc đạo đức đã trở thành một cuộc khủng hoảng vô hình nhưng rộng khắp trong xã hội Trung Quốc. Tham nhũng, biển thủ, sản phẩm giả, dối trá, ác tâm và thoái hóa tiêu chuẩn xã hội đang là chuyện thường. Không còn chút tin tưởng căn bản nào giữa người với người nữa. Còn những ai tuyên bố hài lòng về tiêu chuẩn đời sống được nâng cao, phải chăng quan tâm chủ yếu nhất của họ là cuộc sống ổn định? Yếu tố nào quan trọng nhất trong một xã hội ổn? Đó chính là đạo đức. Một xã hội mà đạo đức bị xuống dốc không thể nào đem đến an ninh và bảo đảm. Tới ngày nay, ĐCSTQ đã đánh đổ hầu như tất cả các tôn giáo truyền thống và giải thể hệ thống giá trị truyền thống. Con đường lưu manh mà nhờ đó ĐCSTQ chiếm được của cải và lừa dối nhân dân đã có một ảnh hưởng dần dần xuống toàn xã hội, làm thối nát toàn bộ xã hội và dẫn dắt nhân dân của nó theo hướng lưu manh hóa. Cai trị bằng những thủ đoạn lưu manh, đương nhiên về cơ bản ĐCSTQ cần một môi trường xã hội lưu manh để nó tồn tại. Đó là tại sao ĐCSTQ dùng mọi thứ để lôi kéo người dân xuống tầng cấp của nó, cố gắng biến nhân dân Trung Quốc thành lưu manh đủ loại. Đây là cách mà bản chất lưu manh của ĐCSTQ đang chôn vùi nền tảng đạo đức đã duy trì dân tộc Trung Quốc bấy lâu.
“Sông núi dễ đổi, lòng người khó thay”. [14] Lịch sử đã chứng minh rằng mỗi lần ĐCSTQ nới lỏng gông cùm và xiềng xích không phải là để bỏ gông cùm và xiềng xích đi. Sau trận Đại Đói Kém vào đầu thập niên 1960, ĐCSTQ đã theo chương trình “Ba Tự Do và Một Giao Ước” (Tam Tự Nhất Bao) [15] có mục đích khôi phục lại sản xuất nông nghiệp, nhưng không có ý định thay đổi thân phận “nô lệ” của nông dân Trung Quốc. Cuộc “cải cách kinh tế” và “tự do hóa” vào thập niên 1980 đã không ảnh hưởng chút nào tới việc ĐCSTQ nâng con dao đồ tể lên để giết chính đồng bào của mình vào năm 1989. Trong tương lai, ĐCSTQ sẽ tiếp tục thay đổi bộ mặt nhưng sẽ không thay đổi bản chất lưu manh của nó. Nhiều người có thể nghĩ rằng quá khứ thuộc về quá khứ và nay tình hình đã thay đổi, và rằng ĐCSTQ ngày nay không như ĐCSTQ thời trước nữa. Có người hài lòng với bề ngoài giả dối mà họ nhìn thấy và thậm chí còn tin một cách sai lầm rằng ĐCSTQ đã cải thiện, đang trong quá trình cải tổ, hoặc có ý định sửa đổi. Họ có thể liên tục quên đi những quá khứ khó nhọc. Tất cả những điều này chỉ cho phép bè đảng lưu manh ĐCSTQ cơ hội tiếp tục tồn tại và đe dọa nhân loại. Bằng mọi nỗ lực, ĐCSTQ tìm cách để bắt người dân quên đi quá khứ. Tất cả mọi đấu tranh của nhân dân là sự nhắc nhở những bất công họ đã phải chịu trong bày tay của ĐCSTQ. Thực tế, lịch sử ĐCSTQ là một lịch sử mà đã cắt rời mọi ký ức của dân chúng, một lịch sử mà trong đó con cháu không biết được những kinh nghiệm thực sự của ông cha mình, một lịch sử mà trong đó hằng trăm triệu công dân phải cam chịu cái mâu thuẫn giữa một bên là sự nguyền rủa cái quá khứ đầy máu của ĐCSTQ và một bên là hy vọng về cái tương lai của ĐCSTQ. Khi bóng ma tà ác cộng sản xuống tới nhân gian, Đảng Cộng Sản đã mở xích cho những cặn bã của xã hội và lợi dụng sự nổi loạn của bọn lưu manh để đoạt và thiết lập quyền lực chính trị. Những gì nó đã làm, bằng tàn sát và bạo chính, là để thiết lập và duy trì chế độ chuyên chế dưới hình thức “Đảng Chiếm Hữu” (Đảng phụ thể, con thú ngoại lai ăn bám). Bằng cách sử dụng cái gọi là tư tưởng “đấu tranh” phản thiên nhiên, phản luật trời, phản nhân tính và phản vũ trụ, ĐCSTQ tiêu diệt lương tâm và lòng nhân từ của con người, và hơn thế nữa nó tiêu diệt văn minh và đạo đức truyền thống. Nó đã sử dụng tàn sát đẫm máu và ép buộc tẩy não để thiết lập một tà giáo cộng sản, tạo nên một đất nước mà người dân có tinh thần méo mó để dễ bề cai trị. Trong suốt lịch sử của ĐCSTQ, có các thời kỳ bạo lực khi khủng bố đỏ đạt đến cao điểm, và các thời kỳ nguy kịch là lúc ĐCSTQ thâu nhỏ lại để tránh bị diệt. Mỗi một lần như thế, ĐCSTQ lại phải viện đến việc sử dụng toàn bộ các phương cách lưu manh của nó để tự thoát khỏi khủng hoảng, nhưng chỉ để hướng tới chu kỳ bạo lực tiếp theo, tiếp tục lừa dối nhân dân Trung Quốc. Một khi dân chúng nhận ra được bản tính lưu manh của ĐCSTQ và không còn bị lừa dối bởi những hình tượng giả dối của nó nữa, sự kết thúc sẽ đến với ĐCSTQ và bản tính lưu manh của nó. ******** So với năm ngàn năm lịch sử Trung Quốc, 55 năm dưới ách cai trị của Trung Cộng chỉ như cái chớp mắt. Trước khi ĐCSTQ xuất hiện, Trung Quốc đã tạo ra một nền văn minh huy hoàng nhất trong lịch sử nhân loại. ĐCSTQ đã nắm lấy cơ hội khi có các vấn đề rắc rối trong nước và sự xâm lược Trung Quốc từ nước ngoài để tiến hành tàn phá đất nước Trung Quốc. Nó đã lấy đi hàng chục triệu mạng sống, làm tan nát vô số gia đình, hủy hoại nhiều nguồn tài nguyên sinh thái mà sự sống còn của Trung Quốc phụ thuộc vào. Những gì thậm chí còn bị phá hoại nhiều hơn cả là sự hủy diệt gần như hoàn toàn nền tảng đạo đức và truyền thống văn hóa quý giá của Trung Quốc. Tương lai của Trung Quốc sẽ ra sao? Trung Quốc sẽ đi về hướng nào? Những câu hỏi nghiêm túc như thế thật quá phức tạp để bàn luận chỉ bằng một vài từ. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là: nếu không có sự phục hồi lại đạo đức của đất nước, không khôi phục mối quan hệ hài hòa giữa người và thiên nhiên, giữa người với trời và đất, nếu không có đức tin hoặc văn hóa cho sự chung sống hòa bình giữa con người với nhau, đất nước Trung Quốc sẽ không thể có một tương lai sáng lạn. Qua bao thập kỷ tẩy não và đàn áp, ĐCSTQ đã truyền thấm nhuần nhuyễn lối suy nghĩ và tiêu chuẩn về tốt và xấu của nó vào cuộc sống nhân dân Trung Quốc một cách sâu đậm. Điều này đã dẫn nhân dân Trung Quốc đến chỗ chấp nhận và hợp lý hóa sự xuyên tạc và giả dối của ĐCSTQ, và trở thành một bộ phận của sự giả dối của nó, từ đó cung cấp cơ sở hình thái ý thức cho sự tồn tại của ĐCSTQ. Loại bỏ cái học thuyết lưu manh bị thấm nhuần bởi ĐCSTQ ra khỏi cuộc đời chúng ta, nhận thức bản chất lưu manh tột cùng của ĐCSTQ, khôi phục lại bản tính và lương tâm con người - đây là bước đầu tiên và cần thiết trên con đường hướng đến một sự chuyển đổi êm thấm sang một xã hội không còn ĐCSTQ. Tiến bước trên con đường này có thể đều đặn và êm ả hay không sẽ còn tùy thuộc vào những thay đổi trong tâm hồn mỗi công dân Trung Quốc. Dù rằng ĐCSTQ dường như đã nắm hết tất cả các tài nguyên và bộ máy bạo lực của quốc gia, nhưng nếu mỗi công dân Trung Quốc đều tin vào sức mạnh của chân lý và gìn giữ đạo đức, thì tà linh ĐCSTQ sẽ mất nền tảng cho sự tồn tại của nó. Tất cả các tài nguyên sẽ tập tức trở lại với chính nghĩa. Và đó là thời khắc sự tái sinh của Trung Quốc xảy ra. Chỉ khi không có ĐCSTQ, thì sẽ có một Trung Quốc mới. Chỉ khi không có ĐCSTQ, Trung Quốc mới có hy vọng. Không có ĐCSTQ, nhân dân Trung Quốc hiền lành và chính trực sẽ xây lại sự huy hoàng lịch sử của Trung Quốc.
Ghi chú:
[1] Theo tư tưởng Nho giáo truyền thống, hoàng đế hoặc vua cai trị theo ý trời, và để có được cái quyền đó, đạo đức của họ phải xứng với trách nhiệm tối cao đó. Một tư tưởng tương tự có thể thấy từ tác phẩm Mạnh Tử. Trong đoạn “Ai trao quyền lực của vua?” khi được hỏi ai trao đất đai và quyền cai quản cho vua Thuấn, Mạnh Tử đã nói “Đó là trời”. Quan điểm về nguồn gốc sức mạnh thần thánh có thể thấy trong truyền thống Cơ Đốc giáo phương Tây. Ví dụ trong Romans 13:1 của tác phẩm Kinh Thánh (phiên bản King James) người ta có thể tìm thấy: “Hãy để mọi linh hồn lệ thuộc vào các quyền lực tối cao. Vì không có quyền lực nào ngoài quyền lực của Chúa: các quyền lực đó là được Chúa ban cho”. [2] Một trung tâm là nói đến phát triển kinh tế, hai cơ bản là: duy trì bốn nguyên tắc cơ bản (con đường xã hội chủ nghĩa, chuyên chính vô sản, sự lãnh đạo của ĐCSTQ, tư tưởng Mao và Mác xít Lê nin nít), và tiếp tục các chính sách cải cách và mở cửa. [3] Dữ liệu từ một báo cáo của Tân Hoa Xã vào ngày 4 tháng 3 năm 2004. [4] Mẫu là một đơn vị diện tích được sử dụng ở Trung Quốc. Một mẫu bằng 6,666.666 mét vuông. [5] Phú dưỡng: gia tăng chất hữu cơ và khoáng vật trong nước, có thể thúc đẩy sự sinh trưởng của thực vật nhưng lại giảm lượng ôxi hòa tan trong nước và thường dẫn đến sự tuyệt chủng của các sinh vật khác. Dữ liệu từ một báo cáo của Tân Hoa Xã vào ngày 29 tháng 2 năm 2004. [6] “Nguyên tắc ba không” đã xảy ra trong quá khứ. Vào năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã đề xuất “Nguyên tắc ba không” để khuyến khích nhân dân nói lên tâm tư của họ: Không dán nhãn, không tấn công, và không xem xét lỗi lầm. Điều này cũng nhắc nhân dân nhớ tới sự khuyến khích tương tự của Mao đối với giới trí thức vào những năm 1950, cái khuyến khích mà đi sau đó là khủng bố tàn nhẫn những người dám nói lên suy nghĩ của mình. Ngày nay, “Ba không” mới được đề xuất nói đến “Phát triển không bàn luận, tiến bộ không đấu tranh, và tiến triển không thỏa mãn những thứ đã đạt được”. [7] Nghị định 23 được chính phủ Hồng Kông đưa ra vào năm 2002 dưới sức ép từ Bắc Kinh. Nghị định này đã cho thấy một sự xói mòn nghiêm trọng về tự do và nhân quyền ở Hồng Kông, phá hoại ngầm chính sách “một đất nước, hai hệ thống”. [8] Lưu Thiếu Kỳ, Chủ tịch nước Trung Quốc giữa những năm 1959 đến 1968, được coi như là người kế vị của Mao Trạch Đông. Trong Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976), ông ta đã bị đàn áp như là kẻ phản bội, gián điệp và nổi loạn. Ông chết vào năm 1969 sau khi bị hành hạ nghiêm trọng dưới hình phạt tù của ĐCSTQ. [9] CCTV ( Đài Truyền Hình Trung Ương Trung Quốc) nằm dưới sự sở hữu và điều hành trực tiếp của chính phủ trung ương. Nó là mạng truyền thông chính ở lục địa Trung Quốc. [10] Tất cả những đoạn được trích này là nhan đề của các bài hát được viết và hát dưới thời của Mao trong những năm 1960 và đầu những năm 1970. [11] Mao đã từng nói rằng chúng ta sợ phạm lỗi, nhưng chúng ta quan tâm tới việc sửa chúng. [12] Về phân tích chi tiết của phim video tự thiêu, xin hãy tham khảo trang web sau: http://daiphapinfo.net/dsp.php?id=8, http://clearwisdom.net/emh/special_column/self-immolation.html, http://faluninfo.net/tiananmen/immolation.asp. [13] Kiến trúc thượng tầng trong ngữ cảnh của lý thuyết xã hội Mác xít nói tới quan hệ giữa tính chủ quan của con người và cơ sở vật chất của xã hội. [14] Đây là một tục ngữ Trung Quốc thừa nhận sự vĩnh cửu của bản tính của một người. [15] Các chính sách cải cách kinh tế, được biết tới như là chương trình “Ba Tự Do và Một Giao Ước” (Tam Tự Nhất Bao) được đề xuất bởi Lưu Thiếu Kỳ, sau đó là Chủ Tịch nước Trung Quốc. Chương trình đã quy định đồ án về đất đai dành cho sử dụng riêng tư, thị trường tự do, các doanh nghiệp chỉ có trách nhiệm đối với lãi và lỗ của nó, và việc cố định chỉ tiêu sản lượng trên cơ sở gia đình.
Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, thời báo Đại Kỷ Nguyên
|
|
| Footer | |