Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

Trở về trang chính

Bài bình luận 3 - Cộng Sản Trung Quốc, một chính thể bạo ngược

 

“Chính quyền vươn lên từ nòng súng” — Mao Trạch Đông đẩy học thuyết đấu tranh vốn có của chủ nghĩa cộng sản lên đến một đỉnh cao mới trong thực nghiệm chủ nghĩa cộng sản tại Trung Quốc: “bạo chính”, nô dịch nhân dân bằng khủng bố.

 

 

Lời dẫn

Nói về “bạo chính”, người Trung Quốc thường nghĩ tới Tần Thủy Hoàng (259-210 trước CN), hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Tần, người đã ra phán quyết đốt sách và chôn sống nho sĩ. Bạo ngược của vua Tần đối với dân chúng là đến từ chính sách: “Tài nguyên trong thiên hạ thảy đều để phụng sự luật của hoàng đế”. [1] Chính sách này có bốn khía cạnh: (a) thuế má cực nặng; (b) lãng phí nhân công cho các công trình để tự ca ngợi hoàng đế; (c) tra tấn tàn nhẫn dưới các luật bạo ngược và trừng phạt cả những thành viên gia đình cùng hàng xóm của người phạm tội; (d) và kiềm chế tư tưởng, đốt sách chôn sống nho sĩ. Dưới thời Tần Thủy Hoàng, Trung Quốc có khoảng mười triệu nhân khẩu, vậy mà triều đình nhà Tần trưng dụng hơn hai triệu làm người phục dịch. Tần Thủy Hoàng đã áp dụng chính sách hà khắc của mình vào giới trí thức, cấm tự do tư tưởng trên phạm vi rộng. Trong thời của ông, hàng ngàn nho sĩ và quan lại phê bình việc triều chính đều bị giết.

Ngày nay, ĐCSTQ (Đảng cộng sản Trung Quốc) lạm dụng bạo lực và lộng hành còn nghiêm trọng hơn nhiều so với triều đại nhà Tần. Triết học của ĐCSTQ là “triết học đấu tranh”, và sự thống trị của ĐCSTQ được xây dựng trên một chuỗi các đấu tranh: “đấu tranh giai cấp”, “đường lối đấu tranh”, “đấu tranh tư tưởng”,… cả đối nội lẫn đối ngoại. Mao Trạch Đông, lãnh đạo ĐCSTQ đầu tiên của nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa, không kiêng nể gì đã nói thẳng, “Tần Thủy Hoàng đáng kể gì? Ông ta giết bỏ 46 chục nho sĩ. Còn chúng ta đã thủ tiêu 46 ngàn thằng trí thức hủ nho như thế. Có kẻ chửi chúng ta là độc tài thống trị, là Tần Thuỷ Hoàng thời nay. Chúng ta thừa nhận hết, rằng rất hợp sự thực. Nhưng chúng bay nói thế chưa đủ độ, nên chúng ta phải nói thêm rằng thực ra còn hơn thế.” [2]

Hãy quay đầu nhìn lại 55 năm khốn khổ của Trung Quốc dưới ách thống trị của ĐCSTQ. Hãy nhìn xem, từ khi ĐCSTQ dùng bạo lực giành chính quyền đến nay, nó đã lợi dụng bộ máy chính quyền trong tay, để tận diệt giai cấp bằng cương lĩnh “đấu tranh giai cấp”, để triển khai chính sách thống trị bằng khủng bố với công cụ “bạo lực cách mạng”. Giết người và tẩy não đã được sử dụng đi đôi với nhau để đàn áp bất kỳ niềm tin nào ngoài lý thuyết cộng sản. ĐCSTQ đã khởi xướng hết cuộc vận động này đến cuộc vận động khác nhằm tự tô vẽ nó thành một “vị thần” luôn đúng đắn. Theo đuổi các lý thuyết của nó về đấu tranh giai cấp và bạo lực cách mạng, ĐCSTQ đã cố gắng tiêu diệt những người bất đồng quan điểm và những tầng lớp xã hội đối lập, sử dụng bạo lực và lừa dối để bắt nhân dân Trung Quốc trở thành những bầy tôi trung thành ngoan ngoãn dưới ách nô dịch bằng khủng bố của mình.

 

******************


I. Cải cách ruộng đất — tiêu diệt giai cấp địa chủ

Vừa được ba tháng sau khi thành lập nước Trung Quốc cộng sản, ĐCSTQ đã kêu gọi tiêu diệt giai cấp địa chủ như là một trong những đường lối chỉ đạo cho chương trình cải cách ruộng đất toàn quốc của nó. Khẩu hiệu của Đảng “dân cày có ruộng” đã cổ động tính ích kỷ, tư lợi của những người nông dân không có đất đai, xúi bẩy họ đấu tranh với những người nông dân có sở hữu đất đai bằng bằng bất cứ phương kế gì và không đếm xỉa đến khía cạnh đạo đức trong hành động. Chiến dịch cải cách ruộng đất đã đề xuất rõ ràng việc tiêu diệt giai cấp chủ đất, và phân loại dân nông thôn thành nhiều loại trong xã hội. Hai mươi triệu dân nông thôn trên toàn quốc đã bị gán nhãn là “địa chủ”, “phú nông”, “phản động“, và “bại hoại”. Những người bị xã hội ruồng bỏ mới này đã đối mặt với sự phân biệt đối xử, nhục nhã, và mất tất cả các quyền công dân của họ. Khi chiến dịch cải cách ruộng đất vươn rộng đến các vùng xa xôi và các làng của những nhóm sắc tộc thiểu số, thì cũng là lúc các tổ chức của ĐCSTQ cũng được mở rộng rất nhanh. Các chi bộ Đảng ở các thành phố nhỏ và các làng mạc đã trải khắp Trung Quốc. Các chi nhánh địa phương cũng là những cái miệng để truyền các chỉ thị từ Ban Trung Ương Đảng và là tuyến đầu của đấu tranh giai cấp, kích động nông dân vùng lên chống lại địa chủ. Gần 100.000 địa chủ đã chết trong chiến dịch này. Ở một số vùng, ĐCSTQ và nông dân đã giết toàn bộ gia đình địa chủ, bất kể già hay trẻ, như là một cách để nhổ tận gốc tầng lớp địa chủ.

Cùng lúc, ĐCSTQ phát động làn sóng tuyên truyền đầu tiên của mình, tuyên bố rằng “Chủ tịch Mao là cứu tinh vĩ đại của nhân dân” và rằng “chỉ có tài năng của ĐCSTQ mới có thể cứu được Trung Quốc”. Trong cải cách ruộng đất, những người nông dân không ruộng đã nhận được những gì họ muốn thông qua chính sách của ĐCSTQ là thu hoạch mà không cần lao động, cưỡng đoạt bằng bất kể cách nào. Nông dân nghèo đã mang ơn ĐCSTQ những cải thiện trong cuộc sống của họ và vì vậy đã tin vào sự truyền bá của ĐCSTQ rằng Đảng làm việc vì lợi ích của nhân dân.

Đối với những người chủ của những miếng đất mới đoạt được, những ngày tươi đẹp “dân cày có ruộng” rất ngắn ngủi. Trong vòng hai năm, ĐCSTQ đã cưỡng đặt một số cuộc vận động buộc nông dân gia nhập các tổ chức như tổ hỗ trợ, hợp tác xã sơ cấp, hợp tác xã cao cấp, và công xã nhân dân. Sử dụng khẩu hiệu chỉ trích “phụ nữ có chân bị bó” —nghĩa là, những người chậm tiến— ĐCSTQ đã năm này qua năm khác dẫn dắt và thúc đẩy nông dân “lao vào” chủ nghĩa xã hội. Thóc lúa, bông, và dầu nấu ăn được đặt dưới một hệ thống thu mua thống nhất trên toàn quốc, do đó những sản phẩm nông nghiệp chính không được đưa ra thị trường trao đổi. Thêm vào đó ĐCSTQ đã thiết lập một hệ thống đăng ký nơi cư trú (hộ khẩu), việc này loại trừ việc người nông dân đến các thành phố tìm việc hay cư ngụ. Những người đăng ký là dân nông thôn không được phép mua thóc lúa tại các cửa hàng nhà nước và con cái của họ bị cấm không được học hành ở thành phố. Con nông dân chỉ có thể là nông dân, biến 360 triệu dân nông thôn trong những năm 1950 thành những công dân hạng hai.

Bắt đầu vào năm 1978, trong năm năm đầu tiên từ khi chuyển từ cơ chế lao động tập thể sang cơ chế khoán theo hộ, một số người trong 900 triệu nông dân đã có tình trạng tốt hơn, thu nhập của họ tăng một chút và địa vị xã hội tương đối cải thiện. Tuy nhiên lợi ích nhỏ nhoi đó chẳng mấy chốc đã bị mất vì cơ cấu giá cả ưu đãi hàng hóa công nghiệp hơn là hàng hóa nông nghiệp; những người nông dân lại đâm sâu vào cảnh bần cùng một lần nữa. Khoảng cách thu nhập giữa dân thành phố và dân nông thôn đã tăng mạnh mẽ, và sự chênh lệch kinh tế tiếp tục mở rộng. Những người địa chủ và phú nông mới đã xuất hiện lại trong những vùng nông thôn. Số liệu từ Tân Hoa Xã đã cho thấy một cách minh bạch rằng từ năm 1997, thu nhập từ những vùng sản xuất thóc lúa chính và thu nhập của hầu hết những hộ gia đình vẫn giữ nguyên, hoặc thậm chí trong một số trường hợp lại giảm đi. Nói cách khác, thu nhập của những người nông dân từ sản xuất nông nghiệp thực tế không tăng. Tỷ lệ giữ thu nhập ở vùng thành phố và nông thôn tăng từ 1.8 trên 1 vào giữa những năm 1980 đến ngày nay là 3.1 trên 1.

******************


II. Cải tạo công thương — tiêu diệt giai cấp tư sản

Một giai cấp khác mà ĐCSTQ cũng muốn tiêu diệt là giai cấp tư sản quốc gia những người sở hữu tài sản trong các thành phố và thị trấn nông thôn. Trong cải tạo công thương Trung Quốc, ĐCSTQ tuyên bố rằng giai cấp tư sản và giai cấp công nhân là khác nhau về bản chất: giai cấp thứ nhất là giai cấp bóc lột trong khi giai cấp thứ hai là giai cấp không bóc lột và chống bóc lột. Theo cái lô-gic tà vạy đó: giai cấp tư sản đã được sinh ra để bóc lột và sẽ không ngừng làm thế đến khi nó diệt vong; nó chỉ có thể bị tiêu diệt, không thể cải tạo. Dưới tiền đề ấy, ĐCSTQ đã sử dụng cả giết và tẩy não để “chuyển hóa” tư sản và thương nhân. ĐCSTQ đã sử dụng phương pháp đã được kiểm nghiệm lâu dài là thuận theo nó thì sống, nghịch với nó thì chết. Nếu bạn dâng tài sản của mình cho quốc gia và hỗ trợ ĐCSTQ, bạn sẽ được coi như chỉ là một vấn đề nhỏ của nhân dân. Nếu, ngược lại, bạn bất đồng với hoặc phàn nàn về chính sách của ĐCSTQ, bạn sẽ bị gán nhãn là “phản động” và trở thành mục tiêu của chế độ độc tài tàn bạo của ĐCSTQ.

Trong thời khủng bố xảy ra trong các cuộc cải tạo đó, những nhà tư sản và những chủ doanh nghiệp tất cả đều đã dâng tài sản của họ. Nhiều người trong số họ không thể chịu đựng được sự nhục nhã mà họ phải đương đầu và đã tự tử. Trần Nghị, sau này trở thành thị trưởng Thượng Hải, đã hỏi mỗi ngày, “Có bao nhiêu lính dù hôm nay?” Ý nói tới số nhà tư sản đã tự tử bằng cách nhảy từ nóc cao ốc vào ngày hôm đó. Trong chỉ một vài năm, ĐCSTQ đã hoàn toàn tiêu diệt sở hữu tư nhân ở Trung Quốc.

Trong thực hiện các chương trình cải tạo công nghiệp và cải cách ruộng đất, ĐCSTQ đã phát động nhiều cuộc vận động để khủng bố nhân dân Trung Quốc. Những cuộc vận động này bao gồm: đàn áp “phản cách mạng”, các chiến dịch cải tạo tư tưởng, đả đảo tập đoàn phản Đảng do Cao Cương và Nhiêu Sấu Thạch cầm đầu, và thanh tra nhóm “phản cách mạng” Hồ Phong [3], chiến dịch Tam Phản, Ngũ Phản, và thanh trừng hơn nữa những người phản cách mạng. ĐCSTQ đã sử dụng những cuộc vận động này nhắm vào và khủng bố một cách tàn nhẫn vô số người dân vô tội. Trong mỗi cuộc vận động chính trị, ĐCSTQ tận dụng toàn bộ sự kiểm soát của nó đối với các tài nguyên của chính phủ cùng với với các đảng ủy, tổng chi, chi bộ. Ba đảng viên sẽ hình thành một nhóm chiến đấu nhỏ, thâm nhập tất cả các làng và vùng lân cận. Những nhóm chiến đấu này là ở đâu cũng có, không việc gì không quản. Mạng lưới kiểm soát của Đảng theo kiểu cài răng lược này, được thừa kế từ mạng lưới “các chi bộ Đảng trong lòng quân đội” trong những năm chiến tranh, từ đó đã đóng một vai trò then chốt trong các cuộc vận động chính trị sau này.

******************

III. Thẳng tay đàn áp các tôn giáo và nhóm tín ngưỡng

ĐCSTQ đã phạm vào một hành động tàn bạo khác khi đàn áp bạo ngược tôn giáo và cấm hoàn toàn tất cả các nhóm tín ngưỡng chủ yếu ngay sau khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Năm 1950, ĐCSTQ chỉ thị các chính quyền địa phương cấm tất cả các niềm tin tín ngưỡng không chính thống và các bang hội. ĐCSTQ đã tuyên bố rằng những tổ chức “phong kiến” này chỉ là những công cụ trong tay của địa chủ, phú nông, phần tử phản động, và đặc vụ Quốc Dân Đảng. Trong cuộc đàn áp trên toàn quốc này, chính phủ đã động viên các giai cấp tin cậy xác định và khủng bố thành viên của các nhóm tín ngưỡng. Chính quyền các cấp đã trực tiếp dính líu vào việc giải tán các “nhóm mê tín” như là các hội Cơ Đốc giáo, Thiên chúa giáo, Đạo giáo (đặc biệt là những người tin vào Nhất quán đạo), và Phật giáo. Họ đã ra lệnh cho tất cả các thành viên của các nhà thờ, chùa, và bang phái phải đăng ký với chính quyền về sự hối hận vì đã tham gia vào các tổ chức này. Không đăng ký sẽ bị bị trừng phạt nghiêm. Năm 1951, chính quyền chính thức ban hành luật cấm rằng những người tiếp tục các hoạt động của các nhóm tín ngưỡng không chính thức sẽ bị phạt tù chung thân hoặc tử hình.

Cuộc vận động này đã khủng bố một số lớn những người hữu thần lương thiện và tuân theo pháp luật. Con số thống kê không đầy đủ cho thấy rằng trong những năm 1950 ĐCSTQ đã khủng bố ít nhất ba triệu tín đồ tôn giáo và thành viên bang hội, một số trong họ đã bị giết. ĐCSTQ đã khám xét hầu hết mọi gia đình trên toàn quốc và thẩm vấn các thành viên gia đình, thậm chí còn đập tan thành từng mảnh các tượng Thần Bếp mà nông dân Trung Quốc theo truyền thống vẫn thờ cúng. Những hành động này đã củng cố thông điệp của ĐCSTQ rằng ý thức hệ cộng sản là hệ tư tưởng hợp pháp duy nhất và niềm tin hợp pháp duy nhất. Khái niệm tín đồ “ái quốc” ngay sau đó đã xuất hiện. Hiến pháp đất nước chỉ bảo vệ những tín đồ “ái quốc”. Thực tế là với bất kỳ tín ngưỡng nào mà một người tin vào, chỉ có một tiêu chuẩn: bạn phải theo các chỉ dẫn của ĐCSTQ và bạn phải công nhận rằng ĐCSTQ ở trên tất cả các tín ngưỡng. Nếu bạn là một tín đồ đạo Cơ đốc, thì ĐCSTQ là thượng đế của thượng đế. Nếu bạn là một Phật tử, ĐCSTQ là Phật tổ của Phật tổ. Trong đạo Hồi, ĐCSTQ là Ala của Ala. Đối với Phật sống của Phật giáo Tây Tạng, ĐCSTQ là người phê chuẩn ai sẽ là Phật sống. ĐCSTQ cho phép bạn không có chọn lựa nào ngoài nói và làm những gì ĐCSTQ yêu cầu bạn nói và làm. Tất cả các tín đồ bị bắt phải thực hiện các mục tiêu của ĐCSTQ trong khi đối với niềm tin chân chính của mình thì chỉ được phép giương mắt mà nhìn tên thôi. Không làm được điều đó có nghĩa sẽ là mục tiêu khủng bố của chế độ độc tài ĐCSTQ.

Theo báo cáo ngày 22 tháng hai năm 2002 của tờ báo trực tuyến Nhân loại và nhân quyền, hai mươi ngàn tín đồ Cơ đốc giáo đã thực hiện một cuộc khảo sát với 560.000 tín đồ Cơ đốc giáo ở các giáo hội gia đình trong 207 thành phố ở 22 tỉnh ở Trung Quốc. Cuộc khảo sát cho thấy rằng trong số các tín đồ ở giáo hội gia đình, 130.000 người bị chính phủ giám thị. Trong cuốn sách Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã khủng bố các tín đồ Cơ đốc giáo thế nào (1958) đã cho thấy rằng đến năm 1957, ĐCSTQ đã giết trên 11.000 tín đồ tôn giáo và đã tùy tiện bắt giữ và tống tiền nhiều người hơn nữa.

Bằng cách tiêu diệt giai cấp địa chủ và tư sản và bằng cách khủng bố quảng đại dân chúng tôn trọng luật pháp và kính ngưỡng thần thánh, ĐCSTQ đã dọn sạch con đường để Chủ nghĩa cộng sản trở thành tôn giáo bao trùm toàn Trung Quốc.

******************

IV. Vận động chống cánh hữu — tẩy não toàn quốc

Năm 1956, một nhóm trí thức Hungary đã thành lập câu lạc bộ Vòng Petofi, nơi tổ chức những diễn đàn và tranh luận phê bình chính phủ Hungary. Nhóm này đã khuấy động một cuộc cách mạng trên toàn quốc ở Hungary, sau đó đã bị đè bẹp bởi lính Xô-viết. Mao Trạch Đông đã lấy “Sự kiện Hungari” này làm một bài học. Mao đã kêu gọi những trí thức Trung Quốc và những người khác “giúp đỡ ĐCSTQ tự chấn chỉnh”. Cuộc vận động này, được gọi ngắn gọn là “vận động trăm hoa”, đi theo sau khẩu hiệu “trăm hoa đua nở, trăm phái tranh luận”. Mục đích của Mao là để nhử ra những “phần tử chống Đảng” trong nhân dân. Trong bức thư của ông ta gửi các lãnh đạo Đảng cấp tỉnh vào năm 1957, Mao Trạch Đông đã nói ra ý định của mình “dụ rắn ra khỏi hang” bằng cách để họ phô bày quan điểm của mình dưới danh nghĩa tự do tư tưởng và chỉnh đốn Đảng.

Các khẩu hiệu vào thời gian đó khuyến khích dân chúng bày tỏ quan điểm và đã hứa không có trả thù —Đảng sẽ không “túm tóc, đánh bằng gậy, chụp mũ, hoặc tính toán giải quyết sau mùa thu”— nghĩa là đảng sẽ không tìm lỗi, tấn công, gán nhãn, hoặc tìm cách trả đũa. Nhưng chẳng mấy chốc sau đó ĐCSTQ đã khởi xướng một cuộc đấu tranh “chống cánh hữu”, đã dán lên 540 ngàn người dân, những người đã dám bày tỏ quan điểm, cái nhãn “cánh hữu”. Trong số họ, 270 ngàn người đã mất việc và 230 ngàn người đã bị gán nhãn là “phần tử trung hữu” hoặc “phần tử phản Đảng, phản xã hội chủ nghĩa”. Sau đó một số người đã tổng kết các thủ đoạn chính trị của ĐCSTQ thành 4 loại: “dụ rắn khỏi hang”, “bịa đặt tội trạng, đột nhiên tập kích, một lời định trắng đen”, “dưới danh nghĩa cứu dân, thực chất là tấn công không thương xót”, và “bức người tự phê phán, gán những cái nhãn xấu xa nhất”.

Như thế những gì là “diễn văn phản động” đã làm cho rất nhiều người cánh hữu và chống cộng sản đã bị đày ải gần 30 năm tới những xó xỉnh xa xôi đầy gian khổ của quốc gia. “Ba lý luận đại phản động”, mục tiêu công kích chung và mạnh mẽ tại thời điểm đó, bao gồm một vài bài diễn văn của La Long Cơ, Chương Bá Quân và Chư An Bình; nhưng thực ra khi xem xét kỹ những gì họ đã đề nghị và đề xuất cho thấy rằng những mong ước của họ khá tốt.

La đã đề nghị thành lập một ủy ban liên hợp ĐCSTQ và nhiều đảng “dân chủ” để kiểm tra sự trệch hướng trong các chiến dịch “Tam Phản”, “Ngũ Phản” và các cuộc vận động thanh trừ phản động. Hội Đồng Nhà Nước thông thường cũng tự trình lên Ban Cố Vấn Chính Trị và Quốc Hội Nhân Dân một số thứ để xem xét và cho bình luận, và Chương đã đề nghị nên bao gồm Ban Cố Vấn Chính Trị và Quốc Hội Nhân Dân vào trong qui trình ra quyết định.

Chư đã đề xuất rằng vì những người không phải là Đảng viên cũng có những ý kiến tốt, tự trọng, và cũng có trách nhiệm, do đó trên toàn quốc không cần thiết phải giao cho các Đảng viên trọng trách lãnh đạo các đơn vị, dù to hay nhỏ, hoặc thậm chí là lãnh đạo các đội trong mỗi đơn vị. Cũng không cần thiết là mọi việc, dù to hay nhỏ, phải được thực hiện theo cách mà các Đảng viên đề nghị. Cả ba đã bày tỏ mong muốn của họ là đi theo ĐCSTQ và không ai trong họ có những đề xuất vượt quá phạm vi cho phép, các đề xuất này nằm trong phạm vi như những lời nổi tiếng của nhà văn, nhà phê bình Lỗ Tấn (với thầy của mình) [4], “Sư phụ, áo choàng của người đã bị bẩn. Xin hãy cởi nó ra và con sẽ giặt nó cho người.” Giống như Lỗ Tấn, những người “cánh hữu” này đã thể hiện sự ngoan ngoãn, phục tùng và kính trọng.

Không ai trong số những người bị kết tội “cánh hữu” đã đề nghị rằng ĐCSTQ nên bị lật đổ; tất cả những gì mà họ đề xuất là những phê bình mang tính xây dựng. Nhưng chính bởi vì những đề xuất này, mà hàng chục ngàn người dân đã mất tự do, và hàng triệu gia đình phải chịu đau khổ. Những gì tiếp theo là những cuộc vận động như là “giãi bày tâm sự với ĐCSTQ”, để đào bới ra những người vẫn kiên định lập trường, chiến dịch mới “Tân Tam Phản”, nhằm đẩy những người trí thức tới những vùng nông thôn làm lao động nặng nhọc, và bắt những người cánh hữu mà vẫn bị sót trong lần đầu. Bất cứ ai có một bất đồng với người lãnh đạo ở nơi làm việc, đặc biệt là những bí thư đảng, sẽ bị gán nhãn là chống ĐCSTQ. ĐCSTQ thông thường sẽ bắt họ phải chịu những phê phán không ngừng, hoặc gửi họ tới các trại lao động để bắt tái giáo dục. Đôi khi Đảng còn di chuyển toàn bộ các gia đình tới các vùng nông thôn, và ngăn cản con em của họ vào các trường đại học hoặc gia nhập quân đội. Họ cũng không thể xin việc ở thành phố hoặc các thị trấn. Các gia đình này bị mất bảo đảm về công ăn việc làm và các lợi ích sức khỏe cộng đồng. Họ đã trở thành những thành viên thấp kém trong hạng nông dân và bị xã hội ruồng bỏ thậm chí trong tầng lớp những công dân hạng hai.

Sau cuộc khủng bố trí thức, một số học giả đã phát triển nhân cách hai mặt. Họ theo sát “Mặt trời đỏ” và trở thành những “trí thức hữu dụng” của ĐCSTQ, làm hoặc và nói bất kể cái gì ĐCSTQ yêu cầu. Một số khác đã trở lên xa rời và tự tách mình khỏi những vấn đề chính trị. Trí thức Trung Quốc, những người theo truyền thống có ý thức trách nhiệm mạnh mẽ với đất nước, đã trở lên câm lặng từ đó.

******************

V. Đại Nhảy Vọt — tạo ra sai lầm để kiểm tra lòng trung thành của nhân dân

Sau chiến dịch chống cánh hữu, cả nước Trung Quốc rơi vào trạng thái sợ hãi sự thực. Mọi người đều tham gia vào nghe những lời giả dối, kể những chuyện giả dối, tạo ra những chuyện giả dối, tránh và bao che sự thực bằng những lời giả dối và tin đồn. Đại Nhảy Vọt là một bài thực hành tập thể trên toàn quốc về nói dối. Nhân dân trên toàn quốc, dưới sự chỉ đạo của bóng ma tà linh ĐCSTQ, đã làm nhiều điều lố bịch. Cả những kẻ nói dối và những người bị nói dối đều bị phản bội. Trong chiến dịch của những lời dối trá và những hành động lố bịch này, ĐCSTQ đã in sâu vào thế giới tinh thần của nhân dân Trung Quốc sự bạo lực và tà khí của nó. Cùng lúc, nhiều người đã hát những bài hát đề cao Đại Nhảy Vọt. “Tôi là Ngọc Hoàng, tôi là Long Vương. Tôi ra lệnh cho tam sơn ngũ núi phải mở đường, tôi đến đây!” Các kế hoạch hoang đường như là “đạt sản lượng thóc lúa 75 tấn trên mỗi héc ta”, “gấp đôi sản lượng thép”, và “vượt qua Anh quốc trong 10 năm và Mỹ trong 15 năm” đã được diễn hết năm này qua năm khác. Những chính sách này đã dẫn tới một nạn đói toàn quốc, trầm trọng cướp đi hàng triệu sinh mạng.

Trong phiên họp toàn thể thứ tám của hội nghị Ban Trung Ương ĐCSTQ Thứ Tám tổ chức ở Lư Sơn vào năm 1959, trong số những người tham dự ai là người bất đồng quan điểm với tướng Bành Đức Hoài [5] rằng Đại Nháy Vọt được khởi xướng bởi Mao Trạch Đông là ngu xuẩn? Tuy nhiên, ủng hộ hay không ủng hộ chính sách của Mao được căn cứ là biểu hiện của “trung thành” hay “phản bội”, là ranh giới sinh tử. Trong một câu chuyện trong lịch sử Trung Quốc, khi Triệu Cao tuyên bố rằng một con hươu là một con ngựa, ông ta biết thừa sự khác biệt giữa một con hươu và một con ngựa, nhưng ông ta cố ý gọi một con hươu là một con ngựa là để kiểm soát dư luận, các cuộc tranh cãi ngầm, và mở rộng quyền lực của chính ông. Kết quả của phiên họp toàn thể Lư Sơn đã đến mức mà Bành Đức Hoài bị bắt phải ký một nghị quyết tự kết tội và loại bỏ ông khỏi chính phủ trung ương. Tương tự, trong nhiều năm sau trong Cách Mạng Văn Hóa, Đặng Tiểu Bình đã bị bắt phải hứa rằng ông ta sẽ không bao giờ phản đối lại quyết định của chính phủ là cách chức ông.

Xã hội dựa trên những kinh nghiệm trong quá khứ để hiểu thế giới và mở rộng các chân trời của nó. Tuy nhiên ĐCSTQ đã lấy đi các cơ hội của nhân dân để có thể học hỏi từ các kinh nghiệm và bài học trong quá khứ. Cơ quan kiểm duyệt chính thức nhắm vào các phương tiện truyền thông đại chúng không hề có tác dụng tích cực, mà trái lại, chúng hạ thấp khả năng nhận thức tốt xấu của nhân dân. Sau mỗi cuộc vận động chính trị, những thế hệ trẻ chỉ được biết đến những báo cáo đã bị ĐCSTQ nhào nặn, họ bị tước đoạt những phân tích, lý tưởng, và kinh nghiệm sâu sắc từ các thế hệ trước. Kết quả là nhân dân Trung Quốc ngày nay chỉ có những thông tin rải rác làm cơ sở để hiểu lịch sử và phán đoán những sự kiện mới, ảo tưởng rằng mình đã thấy chân lý nhưng thực chất đã chệnh khỏi sự thật hàng ngàn dặm. Theo cách đó, chính sách ngu dân của ĐCSTQ đã được thi triển một cách tinh vi và có hệ thống.

******************

VI. Cách Mạng Văn Hóa — tà linh phụ thể đảo ngược càn khôn

Cách Mạng Văn Hóa là một đại biểu diễn của bóng ma cộng sản khi nó chiếm hữu toàn bộ Trung Quốc. Năm 1966, một làn sóng bạo lực mới tràn tới vùng đất Trung Quốc, và cuồng phong gầm thét của cuộc khủng bố đỏ, như một con rồng yêu nghiệt điên loạn đã thoát khỏi dây xích trói, làm rung chuyển các ngọn núi và làm đóng băng các dòng sông. Nhà văn Tần Mục đã miêu tả Cách Mạng Văn Hóa bằng những từ ngữ lạnh lẽo:

“Nó thực sự là một tai họa chưa từng thấy: (ĐCSTQ) đã bỏ tù hàng triệu người vì sự liên hệ của họ với một thành viên gia đình (là mục tiêu khủng bố của nó), đã kết thúc cuộc sống của nhiều triệu người hơn nữa, làm tan vỡ các gia đình, biến trẻ em thành du côn và côn đồ, đốt sách, đánh sập những ngôi nhà cổ, và phá hủy phần mộ của những trí thức cổ, phạm vào mọi loại tội ác dưới danh nghĩa cách mạng.”

Theo thống kê thận trọng của các chuyên gia thì con số những người chết bất thường ở Trung Quốc trong Cách Mạng Văn Hóa là 7.73 triệu.

Mọi người thường hiểu lầm rằng bạo lực và tàn sát trong Cách Mạng Văn Hóa hầu hết xảy ra do những hành động tạo phản hình thành, và rằng Hồng Vệ Binh và những người tạo phản đã tham gia sát nhân. Tuy nhiên, hàng ngàn tư liệu được xuất bản chính thức hàng năm tại các huyện ở Trung Quốc chứng tỏ rằng đỉnh điểm của những cái chết bất thường trong Cách Mạng Văn Hóa không phải vào năm 1966, khi Hồng Vệ Binh kiểm soát các tổ chức chính phủ, hoặc vào năm 1967 khi những người tạo phản dùng vũ lực đấu tranh, mà là vào năm 1968 khi mà Mao đã giành lại được quyền kiểm soát trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Những kẻ giết người trong những trường hợp bỉ ổi đó thường là các sĩ quan quân đội và binh lính, dân binh vũ trang, và các đảng viên cốt cán tại các cấp chính quyền.

Ví dụ sau đây minh họa bạo lực trong Cách Mạng Văn Hóa là chính sách của ĐCSTQ và chính quyền địa phương, mà không phải là các hành động cực đoan của Hồng Vệ Binh thế nào. ĐCSTQ đã bao che sự trực tiếp chỉ huy và tham dự vào bạo lực của các lãnh đạo đảng và nhân viên chính phủ.

Vào tháng tám năm 1966, Hồng Vệ Binh đã trục xuất những công dân Bắc Kinh, những người đã bị phân loại trong các cuộc vận động trong quá khứ là “địa chủ, phú nông, phản động, phần tử xấu, và cánh hữu”, và bắt họ về nông thôn. Các thống kê chính thức chưa đầy đủ đã cho thấy rằng 33.695 ngôi nhà đã bị lục soát và 85.196 dân Bắc Kinh đã bị trục xuất ra khỏi thành phố và gửi trở lại nguyên quán của cha mẹ họ. Hồng Vệ Binh trên toàn quốc theo cùng một cách, đã trục xuất trên 400.000 dân thành thị về nông thôn. Thậm chí cả những viên chức cấp cao, những người mà cha mẹ là địa chủ, cũng phải đối mặt với sự đày ải về nông thôn.

Thực tế, ĐCSTQ đã lên kế hoạch cho chiến dịch trục xuất này thậm chí còn trước khi Cách Mạng Văn Hóa bắt đầu. Bành Chân, cựu thị trưởng Bắc Kinh, đã tuyên bố rằng cư dân của thành phố Bắc Kinh về mặt ý thức hệ nên trong sạch như là “những tấm thủy tinh và pha lê”, nghĩa là tất cả những cư dân có nền tảng giai cấp xấu sẽ bị trục xuất khỏi thành phố. Vào tháng 5 năm 1966, Mao đã ra lệnh cho thuộc cấp “bảo vệ thủ đô”. Một tổ công tác thủ đô được thành lập, được lãnh đạo bởi Diệp Kiếm Anh, Dương Thành Vũ và Tạ Phú Trì. Một trong những nhiệm vụ của đội này là sử dụng công an để trục xuất các cư dân Bắc Kinh có nền tảng giai cấp xấu.

Lịch sử này giúp làm rõ tại sao chính phủ và các sở công an đã không can thiệp mà còn hỗ trợ Hồng Vệ Binh lục soát nhà và trục xuất hơn hai phần trăm cư dân Bắc Kinh. Bộ trưởng Bộ Công An, Tạ Phú Trì, đã yêu cầu công an không những không can thiệp vào các hành động của Hồng Vệ Binh mà còn tham mưu và cung cấp thông tin cho họ. Hồng Vệ Binh đơn giản chỉ là đã bị lợi dụng bởi Đảng để thực hiện hành động đã được lên kế hoạch, và sau đó, vào cuối năm 1966, những người Hồng Vệ Binh này bị ĐCSTQ bỏ rơi. Nhiều người đã bị gán nhãn “phản cách mạng” và bị bỏ tù, và những người khác bị đày về nông thôn, cùng với những thanh niên thành thị khác, để lao động và cải tạo tư tưởng. Tổ chức Tây Thành Hồng Vệ Binh, tổ chức đã dẫn dắt cuộc trục xuất các cư dân thủ đô, đã được thành lập dưới sự hướng dẫn “chăm sóc” của những lãnh đạo ĐCSTQ. Lệnh buộc tội những người Hồng Vệ Binh này cũng được phát ra sau khi đã được duyệt bởi tổng thư ký của Hội Đồng Nhà Nước.

Theo sau sự di dời các cư dân Bắc Kinh có nền tảng giai cấp xấu, các vùng nông thôn đã bắt đầu một cuộc bức hại khác lên các phần tử thuộc giai cấp xấu. Vào ngày 26 tháng 8 năm 1966 một bài diễn văn của Tạ Phú Trì đã được chuyển xuống Cục Công An huyện Đại Hưng tại hội nghị bàn công việc của họ. Tạ đã ra lệnh cho công an hỗ trợ Hồng Vệ Binh lục soát các căn nhà của “năm giai cấp đen” (địa chủ, phú nông, phản động, phần tử xấu, và cánh hữu) bằng cách tham mưu và giúp đỡ đột kích. Cuộc Tàn Sát Đại Hưng [7] bỉ ổi đã xảy ra như là kết quả của mệnh lệnh trực tiếp của cục công an huyện; những người tổ chức là giám đốc và bí thư đảng ủy của cục công an, và những kẻ giết người đa phần là dân binh, họ thậm chí không tha cho cả trẻ em.

Nhiều người đã được kết nạp vào ĐCSTQ vì những “hành động tốt” của họ trong những cuộc tàn sát tương tự. Theo những con số thống kê không đầy đủ đối với tỉnh Quảng Tây, khoảng 50.000 đảng viên đã tham dự vào giết người. Trong số họ có hơn 9.000 người đã được kết nạp vào Đảng rất nhanh sau khi giết ai đó, hơn 20.000 người đã phạm vào giết người sau chi được kết nạp vào Đảng, và hơn 19.000 Đảng viên khác đã dính líu vào giết người theo cách này hay cách khác.

Trong Cách Mạng Văn Hóa, lý luận giai cấp cũng được áp dụng vào đánh đập: “Người tốt đánh người xấu là đích đáng. Người xấu đánh người tốt là vinh dự. Người tốt đánh người tốt khác là hiểu lầm.” Một lý thuyết láo toét như vậy được Mao phát minh và đã được truyền bá rộng rãi trong các cuộc vận động tạo phản. Bạo lực và tàn sát đã lan rộng theo sau cái lô-gic rằng kẻ thù của đấu tranh giai cấp xứng đáng với bất kỳ bạo lực nào trút lên họ.

Từ ngày 13 tháng 8 tới ngày 7 tháng 10 năm 1967, dân binh ở huyện Đạo tỉnh Hồ nam đã tàn sát các thành viên của tổ chức “Tương Giang Phong Lôi” (Gió và sét của Tương Giang) và những người thuộc “năm giai cấp đen”. Cuộc tàn sát kéo dài 66 ngày; hơn 4.519 người trong 2.778 hộ thuộc 468 đại đội nằm trong 36 công xã trong 10 khu, đã bị giết. Trong toàn huyện bao gồm 10 khu, tổng số 9.093 người đã bị giết, trong đó 38% là thuộc “năm giai cấp đen” và 44% là con cái của họ. Người già nhất bị giết là 78 tuổi, người trẻ nhất mới chỉ 10 ngày tuổi.

Đây mới chỉ là một trường hợp trong một vùng nhỏ vào thời Cách Mạng Văn Hóa. Ở vùng Nội Mông, sau khi thiết lập “ủy ban cách mạng” vào đầu năm 1968, cuộc thanh trừng tầng lớp giai cấp và làm trong sạch “Đảng cách mạng nhân dân Nội Mông” bịa đặt đã giết hơn 350 ngàn người. Năm 1968, hàng chục ngàn dân ở tỉnh Quảng Tây đã tham gia vào một cuộc đại tàn sát bè phái tạo phản “422”, giết hơn 110 ngàn người.

Những trường hợp này đã cho thấy rằng tất cả những hành động giết người bạo lực chính trong Cách Mạng Văn Hóa là dưới sự thao túng và chỉ đạo trực tiếp của những lãnh đạo ĐCSTQ đã cổ vũ và lợi dụng bạo lực để khủng bố và giết dân. Những kẻ giết người trực tiếp tham gia vào chỉ đạo và tàn sát hầu hết là quân đội, cảnh sát, dân binh, và những Đảng viên, Đoàn viên cốt cán.

Nếu như trong Cải cách ruộng đất ĐCSTQ đã sử dụng nông dân đạp đổ địa chủ để lấy đất, trong Cải tạo công thương ĐCSTQ đã sử dụng giai cấp lao động để đạp đổ những nhà tư sản để lấy tài sản, và trong vận động chống cánh hữu ĐCSTQ loại bỏ tất cả các trí thức những người vẫn giữ các quan điểm chống đối, thì cái gì là mục đích của tất cả những giết chóc trong Cách Mạng Văn Hóa? ĐCSTQ đã sử dụng một nhóm người này để giết nhóm khác, và không một giai cấp nào được tin cậy. Thậm chí nếu bạn là từ những người công nhân và nông dân, hai giai cấp mà Đảng tin cậy trong quá khứ, nếu quan điểm của bạn khác quan điểm của Đảng, tính mệnh của bạn sẽ bị nguy hiểm. Như vậy rốt cuộc cứu cánh của nó là gì?

Mục đích là biến chủ nghĩa cộng sản thành niềm tin duy nhất chế ngự trên toàn quốc, kiểm soát không chỉ đất nước mà còn tinh thần của mọi người dân.

Cách Mạng Văn Hóa đã đẩy ĐCSTQ và sự tôn thờ cá nhân Mao Trạch Đông lên đến đỉnh điểm. Lý luận của Mao phải được sử dụng để ra lệnh cho mọi thứ và tư tưởng của một người (Mao) phải được nhồi nhét vào não của hàng chục triệu người dân khác. Cách Mạng Văn Hóa, theo một cách chưa có tiền lệ và không bao giờ giống như thế nữa, cố tình không chỉ ra rằng Đảng không cho làm cái gì. Thay vào đó, Đảng nhấn mạnh “được phép làm những việc này và phải làm chúng như thế này”. Còn bất kỳ cái gì bên ngoài phạm vi ấy đều được hiểu là không thể được thực hiện hoặc thậm chí không được nghĩ tới.

Trong Cách Mạng Văn Hóa, mọi người trong đất nước đã thực hiện một lễ nghi giống như tôn giáo: “sáng nghe chỉ thị của Đảng và chiều báo cáo với Đảng”, kính chúc Mao chủ tịch vạn thọ vô cương nhiều lần một ngày, và tổ chức các buổi cầu nguyện chính trị sáng và chiều mỗi ngày. Gần như mọi cá nhân có học nào cũng có kinh nghiệm viết tự phê bình và các báo cáo tư tưởng. Các trích dẫn của Mao như là những cái sau đây đã được ngâm lên thường xuyên. “Đánh tàn nhẫn mọi ý tưởng ích kỷ chớp lên trong đầu”. “Thực hiện các chỉ thị cho dù bạn có hiểu chúng hay không; làm sâu sắc hiểu biết của bạn trong quá trình thực hiện”.

Chỉ có một “chúa” (Mao) là được phép thờ cúng; chỉ có một loại kinh sách (những lời dạy của Mao) là được phép nghiên cứu. Chẳng mấy chốc quá trình “tạo chúa” đã tiến triển tới mức độ mà nhân dân không thể mua thức ăn ở căng tin nếu họ không ngâm một câu trích dẫn hoặc chúc mừng Mao. Khi mua hàng, lên xe buýt, hoặc thậm chí gọi một cú điện thoại, một người phải đọc thuộc lòng một trong những trích dẫn của Mao, ngay cả khi nó hoàn toàn không thích hợp. Trong những nghi thức thờ cúng này, nhân dân hoặc là cuồng tín hoặc khuyển nho, và đã ở dưới sự kiểm soát của bóng ma cộng sản trong bất kỳ trường hợp nào. Tạo ra lời dối trá, dung nhẫn lời dối trá, và tin vào lời dối trá trở thành phong cách sống của nhân dân Trung Quốc.

******************

VII. Cải cách và mở cửa — “bạo chính” tiến triển theo thời gian

Cách Mạng Văn Hóa là một thời kỳ đầy máu, giết chóc, oan hồn bay phiêu linh, tuyệt lương tri, và trắng đen điên đảo. Sau Cách Mạng Văn Hóa, hàng ngũ lãnh đạo ĐCSTQ đã thay đổi biểu ngữ của nó một cách thường xuyên, tương ứng với sự thay đổi người lãnh đạo chính phủ 6 lần trong 20 năm. Sở hữu tư nhân đã trở lại Trung Quốc, sự chênh lệch mức sống giữa các vùng thành thị và nông thôn đã khoét rộng ra, các vùng sa mạc đang nhanh chóng mở rộng, nước sông đã đang khô kiệt dần, và sử dụng ma túy và mại dâm đang gia tăng. Tất cả những “tội ác” mà ĐCSTQ đã từng chống lại bây giờ lại được cho phép một lần nữa.

Tâm địa sài lang, bản tính rắn rết đục khoét, hành động quỷ mị, và khả năng mang họa tới đất nước của ĐCSTQ chỉ có tăng chứ không có giảm. Trong Tàn Sát Thiên An Môn năm 1989, Đảng đã điều động quân đội và xe tăng để giết các sinh viên đang kháng nghị tại quảng trường Thiên An Môn. Cuộc khủng bố dữ dội nhằm vào những người tu luyện Pháp Luân Công thậm chí còn tồi tệ hơn. Tháng 10 năm 2004, để lấy đất của những người nông dân, chính quyền thành phố Du Lâm tỉnh Thiểm Tây đã điều động hơn 1.600 cảnh sát chống bạo loạn để bắt và bắn hơn 50 nông dân. Kiểm soát chính trị của chính phủ Trung Quốc vẫn tiếp tục dựa trên triết học đấu tranh và bạo lực của ĐCSTQ. Cái khác duy nhất với quá khứ là ĐCSTQ đã trở lên thậm chí còn gian dối xảo trá hơn.

Pháp Luật: ĐCSTQ không bao giờ ngừng tạo ra những xung đột trong nhân dân. Có những con số lớn về những công dân bị khủng bố vì là “phản động”, “chống chủ nghĩa xã hội”, “phần tử xấu”, “thành viên tà giáo”,… Bản tính chuyên chế của ĐCSTQ tiếp tục xung đột với tất cả các nhóm và tổ chức công dân khác. Dưới danh nghĩa “duy trì trật tự và ổn định của xã hội”, Đảng không ngừng thay đổi hiến pháp, luật và quy định, và khủng bố những người bất đồng quan điểm với chính phủ như là những kẻ phản động.

Vào tháng 7 năm 1999, Giang Trạch Dân đã ra một quyết định cá nhân, chống lại hầu hết mong muốn của các thành viên khác trong Bộ Chính Trị, là loại bỏ Pháp Luân Công trong vòng ba tháng; vu khống và lừa gạt nhanh chóng bao trùm khắp đất nước. Sau khi Giang Trạch Dân tự ý tuyên bố Pháp Luân Công là một “tà giáo” trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Pháp La Figaro, sự tuyên truyền chính thức của Trung Quốc phát triển bằng cách nhanh chóng xuất bản những bài báo gây áp lực tới mọi người trên đất nước phải chống lại Pháp Luân Công. Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bị bức bách phải thông qua một “quyết định” vô luân lý và không thuộc loại nào để “xử lý tà giáo”; chẳng mấy chốc sau đó Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm soát tối cao cùng phát hành một “giải thích” cho “quyết định” đó.

Vào ngày 22 tháng 7 năm 1999, Tân Hoa Xã xuất bản những bài diễn văn của các lãnh đạo Bộ Tổ Chức Trung Ương ĐCSTQ và Bộ Tuyên Truyền Trung Ương ĐCSTQ công khai hỗ trợ cuộc khủng bố của ĐCSTQ chống lại Pháp Luân Công. Nhân dân Trung Quốc bị vướng vào cuộc khủng bố chỉ đơn giản vì nó đã được quyết định bởi Đảng. Họ chỉ có thể tuân theo mệnh lệnh và không dám đưa ra bất kỳ sự phản đối nào.

Hơn 5 năm qua, chính phủ đã tận dụng một phần tư các nguồn tài chính của quốc gia để khủng bố Pháp Luân Công. Mọi người trên đất nước đã phải trải qua một cuộc kiểm tra; hầu hết những ai thừa nhận tu luyện Pháp Luân Công và từ chối không từ bỏ tu luyện đều bị mất việc làm; một số bị kết án phải đi cải tạo lao động. Những người tu luyện Pháp Luân Công đã không vi phạm bất cứ luật nào, cũng không phản bội đất nước hay chống đối lại chính phủ, họ chỉ tin vào “Chân, Thiện, và Nhẫn”. Nhưng hàng trăm ngàn người đã bị bỏ tù. Trong khi ĐCSTQ cố gắng phong tỏa tin tức chặt chẽ, hơn 1.100 người đã được xác nhận bởi gia đình của họ là đã bị tra tấn đến chết; con số người chết thực sự là cao hơn nhiều.

Báo cáo tin tức: Vào ngày 15 tháng 10 năm 2004, theo tờ báo Hồng Kông Văn Hối Báo đã ghi lại rằng vệ tinh thứ 20 của Trung Quốc đã quay trở lại trái đất, rơi xuống và phá hủy căn nhà của Hoắc Tích Ngọc ở thị trấn Bồng Lai huyện Đại Anh tỉnh Tứ Xuyên. Báo cáo trích dẫn lời của Ngải Dụ Khánh giám đốc văn phòng chính phủ huyện Đại Anh rằng “cục đen” đã được xác nhận là vệ tinh. Chính Ngải là phó tổng chỉ huy hiện trường dự án thu hồi vệ tinh. Tuy nhiên, Tân Hoa Xã chỉ báo cáo thời gian phản hồi của vệ tinh, nhấn mạnh rằng đây là vệ tinh thử nghiệm kỹ thuật và khoa học được phục hồi lần thứ 20 của Trung Quốc. Tân Hoa Xã không đề cập một lời nào về việc vệ tinh phá hủy căn nhà. Đây là một ví dụ điển hình về thông lệ báo cáo nhất quán của các phương tiện thông tin Trung Quốc là chỉ báo cáo những tin tốt và che đậy các tin xấu, theo như đã được chỉ dẫn bởi Đảng.

Dối trá và vu khống được xuất bản bởi những tờ báo và truyền bá trên tivi đã trợ giúp rất nhiều việc thực thi các chính sách của ĐCSTQ trong tất cả các cuộc vận động trong quá khứ. Mệnh lệnh của Đảng sẽ được thực thi ngay lập tức bởi các phương tiện truyền thông trên đất nước. Khi Đảng muốn bắt đầu cuộc “vận động chống cánh hữu”, các phương tiện truyền thông trên toàn Trung Quốc đã ghi lại với cùng giọng điệu về các tội ác của cánh hữu. Khi Đảng muốn thành lập các công xã nhân dân, mọi tờ báo trên đất nước đã bắt đầu tán dương tính ưu việt của các công xã nhân dân. Trong tháng khủng bố Pháp Luân Công đầu tiên, tất cả các đài phát thanh và truyền hình đều vu khống Pháp Luân Công lặp đi lặp lại các tin vu khống rằng những người tu luyện Pháp Luân Công đang phạm vào tội giết người và tự tử. Một ví dụ về những báo cáo giả dối như vậy là sự kiện “Tự thiêu Thiên An Môn” được đóng giả, nó đã bị Tổ chức phát triển giáo dục quốc tế chỉ trích là hành động do chính phủ dựng lên để lừa dối dân chúng. Trong 5 năm qua, không tờ báo hoặc đài truyền hình nào ở lục địa Trung Quốc đưa tin sự thực về Pháp Luân Công.

Nhân dân Trung Quốc đã quen với các báo cáo tin tức bịa đặt. Một ký giả cao cấp của Tân Hoa Xã có lần đã nói: “Lẽ nào có thể tin vào Tân Hoa Xã?” Dân gian thậm chí đã mô tả các tờ báo Trung Quốc như những con chó của Đảng. Một bài hát dân gian hát rằng: “Là một con chó được Đảng nuôi, canh giữ cổng cho Đảng. Nó cắn bất kỳ ai mà Đảng muốn cắn, và cắn bất kể bao nhiêu lần mà Đảng muốn nó làm”.

Giáo dục: Ở Trung Quốc, giáo dục không còn là giáo dục theo đúng nghĩa, mà đã trở thành một trong những công cụ kiểm soát nhân dân. Mục đích nguyên thủy của giáo dục là để đào tạo các trí thức có cả tri và thức đúng đắn. Tri là nói tới sự hiểu biết thông tin, dữ liệu và các sự kiện lịch sử; thức nói tới quá trình phân tích, nghiên cứu, phê phán và tái sáng tạo, một quá trình phát triển tinh thần. Những người có tri mà không có thức được nói đến như là những con mọt sách, không phải là những trí thức thực sự có lương tâm xã hội. Điều này giải thích tại sao trong lịch sử Trung Quốc lại kính trọng cao đối với những học giả có thức chứ không phải những học giả chỉ có tri. Tuy nhiên, dưới sự thống trị của ĐCSTQ, Trung Quốc tràn đầy những trí thức là những người có tri mà không có thức, những người không dám rèn luyện thức. Giáo dục trong trường học tập trung dạy học sinh không làm những việc mà Đảng không muốn chúng làm. Nhiều năm trở lại đây, tất cả những trường học đã bắt đầu dạy chính trị và lịch sử ĐCSTQ bằng những sách giáo khoa thống nhất. Các giáo viên dù không tin vào nội dung của sách, nhưng bởi “kỷ luật” của Đảng họ vẫn bị bắt phải dạy nó trái với lương tâm của họ. Học sinh dẫu không tin vào sách hoặc giáo viên của họ, nhưng họ phải nhớ mọi thứ trong sách để vượt qua được các kỳ thi. Gần đây, những câu hỏi phê phán Pháp Luân Công đã được đưa thẳng vào các bài kiểm tra đầu vào và học kỳ trong các trường đại học và trung học. Những học sinh không biết các câu trả lời mẫu sẽ không đạt điểm để vào được những trường đại học hoặc trung học tốt. Nếu một học sinh dám nói sự thật, thì sẽ bị trục xuất khỏi trường ngay lập tức và mất bất kỳ cơ hội giáo dục chính thống nào khác.

Trong hệ thống giáo dục công cộng, vì ảnh hưởng của báo chí và các tài liệu của chính phủ, nhiều câu nói có tiếng đã được truyền bá như là sự thật, như là trích dẫn của Mao “Chúng ta nên hỗ trợ bất kể thứ gì kẻ thù chống lại và chống lại bất kể thứ gì kẻ thù hỗ trợ”. Hiệu quả xấu đã lan rộng: nó đã đầu độc lương tâm của nhân dân, thay thế lòng nhân từ và phá hủy những nguyên tắc đạo đức về sống hòa bình và hài hòa.

Vào năm 2004, Trung Tâm Thông Tin Trung Quốc đã phân tích một cuộc điều tra được thực hiện bởi Mạng Sina Trung Quốc, và kết quả cho thấy rằng 82.6% thanh niên Trung Quốc đồng ý rằng trong chiến tranh một người có thể lạm dụng phụ nữ, trẻ em và tù nhân. Kết quả này đang gây ra một cú sốc. Nhưng nó phản ảnh khuynh hướng tinh thần của người Trung Quốc hôm nay, và đặc biệt là của thế hệ trẻ, những người bị thiếu hiểu biết cơ bản về những khái niệm nguyên tắc hướng thiện của văn hóa truyền thống cũng như là khái niệm về nhân tính phổ quát.

Vào ngày 11 tháng 9 năm 2004, một tên cuồng đồ đã chém 28 trẻ em bằng một con dao ở thành phố Tô Châu. Vào ngày 20 cùng tháng, một người đàn ông ở tỉnh Sơn Đông đã làm bị thương 25 học sinh tiểu học bằng một con dao. Một số giáo viên tiểu học đã bắt học sinh phải làm pháo bằng tay để gây quỹ cho trường, dẫn đến một vụ nổ trong đó các học sinh đã chết.

Thực thi chính sách: Lãnh đạo ĐCSTQ thường xuyên sử dụng dọa nạt và ép buộc để bảo đảm việc thực thi các chính sách của họ. Một trong những phương tiện họ sử dụng là khẩu hiệu chính trị. Trong một thời gian dài, ĐCSTQ đã sử dụng số các khẩu hiệu được trưng lên làm tiêu chuẩn để đánh giá thành tích chính trị của một người. Trong Cách Mạng Văn Hóa, Bắc Kinh trở thành một “biển đỏ” các áp phích chăng suốt đêm, với khẩu hiệu “Đả đảo phái tư bản chủ nghĩa đương quyền trong Đảng” ở mọi nơi. Ở nông thôn, mỉa mai thay, các khẩu hiệu đã được viết ngắn gọn thành “Đả đảo phái đương quyền”.

Gần đây, để tuyên truyền Lâm Luật, Cục Lâm Nghiệp và tất cả các trạm và văn phòng bảo vệ rừng đã có lệnh một cách nghiêm chỉnh đòi hỏi một số lượng chỉ tiêu các khẩu hiệu để treo. Không đạt chỉ tiêu sẽ bị coi là không hoàn thành công tác. Kết quả là, các văn phòng chính phủ địa phương đã cho treo một số lượng lớn các khẩu hiệu, như “Bất kể ai đốt núi phải vào tù”. Trong việc kiểm soát sinh đẻ những năm gần đây, đã có những khẩu hiệu thậm chí rùng rợn như: “Nếu một người phạm luật, cả làng sẽ bị triệt sản”, “Thà có một cái mả còn hơn có một đứa bé”, hoặc “Nếu anh ta không phẫu thuật thắt ống dẫn tinh mà anh ta đáng phải làm, nhà của anh ta sẽ bị phá hủy; nếu chị ta không nạo thai mà chị ta đáng phải làm, bò và ruộng lúa của chị ta sẽ bị xung công”. Có nhiều khẩu hiệu nữa vi phạm nhân quyền và Hiến pháp, như là: “Ngày mai bạn sẽ ngủ trong tù nếu hôm nay bạn không đóng thuế”.

Một khẩu hiệu về cơ bản là một cách để quảng cáo, nhưng theo một cách trực quan hơn và lặp đi lặp lại. Vì thế chính phủ Trung Quốc thường sử dụng khẩu hiệu để tuyên truyền những quan điểm chính trị, ý chí và để hiệu triệu. Các khẩu hiệu chính trị cũng có thể được xem như là những lời mà chính phủ nói với dân chúng. Tuy nhiên, đọc các khẩu hiệu tuyên truyền chính sách của ĐCSTQ, sẽ không khó nhận ra bạo lực và tàn nhẫn đứng đằng sau những hình ảnh và câu chữ.

******************

VIII. Tẩy não toàn bộ đất nước và biến đất nước thành một “Nhà tù tinh thần”

Vũ khí hiệu quả nhất ĐCSTQ sử dụng để duy trì sự thống trị bạo ngược của nó là hệ thống kiểm soát. Được tổ chức tốt, ĐCSTQ áp đặt tinh thần tuân thủ lên mỗi công dân. Cho dù ĐCSTQ có mâu thuẫn với chính nó hay liên tục thay đổi chính sách cũng không thành vấn đề, chừng nào nó còn có thể tổ chức được một cách hệ thống cho phép cướp đi của nhân dân những quyền con người cơ bản tự nhiên. Các xúc tu của chính phủ có mặt ở khắp nơi. Cho dù là ở thành thị hay nông thôn, công dân bị quản lý bởi cái gọi là các ủy ban dân phố hay thị trấn. Đến tận gần đây, lập gia đình hay li dị, và việc có một đứa con, tất cả đền cần đến sự chấp thuận của ủy ban. Ý thức hệ của Đảng, cách suy nghĩ, tổ chức, cấu trúc xã hội, cơ chế truyền bá và các hệ thống quản lý chỉ là để phục vụ những mục đích độc tài của nó. Đảng, qua hệ thống chính phủ, cố gắng kiểm soát suy nghĩ và hành động của mọi người.

Việc ĐCSTQ kiểm soát nhân dân tàn nhẫn như thế nào không hề giới hạn trong việc hành xác mà nó bắt dân phải chịu. Đảng còn bắt nhân dân mất các khả năng suy nghĩ độc lập, làm họ sợ, là những người nhát gan co cụm không dám mở miệng. Mục tiêu thống trị của ĐCSTQ là tẩy não mọi công dân của nó để họ nghĩ và nói giống như ĐCSTQ, và làm bất kể cái gì nó tuyên truyền.

Có câu nói rằng, “Chính sách của Đảng như mặt trăng, nó thay đổi mỗi 15 ngày”. Bất kể Đảng thay đổi chính sách của nó thường xuyên thế nào, mọi người trên toàn quốc cần theo sát chúng. Khi bạn được sử dụng như là một phương tiện để tấn công những người khác, bạn cần cảm ơn Đảng vì đã đánh giá cao sức mạnh của bạn; khi bạn bị thương, bạn phải cảm ơn ĐCSTQ vì “dạy bạn một bài học”; khi bạn bị đả kích do hiểu sai, rồi sau đó ĐCSTQ khôi phục thanh danh cho bạn, bạn phải cảm ơn ĐCSTQ vì đã khoan dung, đại độ và có khả năng sửa sai.

Sau 55 năm bạo ngược, ĐCSTQ đã cầm tù tư tưởng của đất nước và nhốt nó vào trong phạm vi cho phép của ĐCSTQ. Những ai suy nghĩ bên ngoài phạm vi này bị coi là một tội ác. Sau những lần đấu tranh lặp đi lặp lại, sự ngu đần được đề cao như là trí thông minh; nhát gan được coi là một cách để tồn tại. Trong xã hội hiện đại với Internet là phương tiện trao đổi thông tin chính, ĐCSTQ thậm chí còn yêu cầu nhân dân phải rèn luyện tự kỷ luật và không đọc tin từ bên ngoài hay đăng nhập vào những website có những từ khóa như là “nhân quyền” và “dân chủ”.

Cuộc vận động tẩy não nhân dân của ĐCSTQ là hoang đường, tàn bạo, ti tiện, và ở đâu cũng có. Nó đã bóp méo các giá trị đạo đức và nguyên tắc của xã hội Trung Quốc và hoàn toàn viết lại các tiêu chuẩn hành xử và lối sống của đất nước. ĐCSTQ liên tục sử dụng tra tấn thể xác và tinh thần để gia tăng quyền lực tuyệt đối của nó để thống trị Trung Quốc với “tôn giáo ĐCSTQ” nhất thống thiên hạ.

******************

Kết luận

Tại sao ĐCSTQ phải đấu tranh không ngừng để giữ quyền lực của nó? Tại sao ĐCSTQ tin rằng chừng nào cuộc sống tồn tại thì đấu tranh là không bao giờ hết? Để đạt được mục đích của nó, ĐCSTQ không do dự khi giết người hoặc phá hủy môi trường sinh thái, cũng như không quan tâm rằng đa số nông dân và dân thành thị đang sống trong cảnh bần cùng.

Liệu có phải vì ý thức hệ cộng sản mà ĐCSTQ đi theo con đường đấu tranh không ngừng? Câu trả lời là “Không”. Một trong những nguyên tắc của Đảng Cộng Sản là từ bỏ sở hữu tư nhân, cái mà ĐCSTQ đã cố gắng làm khi nó vừa dành được quyền lực. ĐCSTQ đã tin rằng sở hữu tư nhân là nguồn gốc gây ra tất cả tội ác. Tuy nhiên, sau cải cách kinh tế vào những năm 1980, sở hữu tư nhân lại một lần nữa được phép tồn tại ở Trung Quốc và được bảo vệ bởi Hiến Pháp. Xuyên qua những lời nói dối của ĐCSTQ, người dân sẽ thấy rõ ràng trong 55 năm cầm quyền, ĐCSTQ chỉ đạo diễn một màn kịch phân phối lại tài sản. Sau nhiều lần phân phối, ĐCSTQ đơn giản là chuyển tài sản của người khác thành tài sản riêng tư của chính nó.

ĐCSTQ tự tuyên bố nó là “người tiên phong của giai cấp lao động”. Nhiệm vụ của nó là loại bỏ giai cấp tư sản. Tuy nhiên, bây giờ luật lệ của ĐCSTQ rõ ràng là cho phép những nhà tư bản gia nhập Đảng. Thành viên của ĐCSTQ không còn tin vào Đảng và Chủ nghĩa cộng sản nữa, và sự tồn tại của ĐCSTQ là vô lý. Những gì còn lại của Đảng Cộng Sản chỉ là cái vỏ rỗng ruột.

Có phải trường kỳ đấu tranh sẽ giữ cho các thành viên ĐCSTQ không bị thối nát? Không. 55 năm sau khi ĐCSTQ nắm quyền lực, những tham ô, hối lộ, làm xằng bậy không theo pháp luật, và những hành động phá hoại đất nước và nhân dân vẫn lan rộng trong các quan chức ĐCSTQ trên toàn quốc. Trong những năm gần đây, trong tổng số xấp xỉ 20 triệu quan chức Đảng ở Trung Quốc, tám triệu quan chức hủ bại đã bị trừng trị vì những tội ác liên quan đến tham ô. Mỗi năm, khoảng 1 triệu người tố cáo với các cấp chính quyền cao hơn về những quan chức hủ bại chưa bị điều tra. Từ tháng hai đến tháng chín năm 2004, Cục Quản lý Ngoại hối Trung Quốc đã điều tra các trường hợp thanh toán trao đổi tiền bất hợp pháp ở 35 ngân hàng và 41 xí nghiệp, và đã tìm thấy 120 triệu đô la Mỹ trong các giao dịch bất hợp pháp. Theo thống kê những năm gần đây, không ít hơn 4.000 quan chức ĐCSTQ đã trốn thoát khỏi ĐCSTQ cùng với tiền biển thủ, và tiền của trộm cắp từ nhà nước đã lên tới hàng chủ tỷ đô la Mỹ.

Có phải đấu tranh nhằm mục đích nâng cao tố chất và giác ngộ của dân và để giữ dân quan tâm tới các việc quốc gia đại sự? Câu trả lời cũng là một chữ “Không” vang rền khác. Ở Trung Quốc ngày nay, theo đuổi vật chất là đang không kiềm chế được, và nhân dân đang mất đi đức lương thiện truyền thống. Đã trở thành chung cho mọi người là lừa dối họ hàng và bịp bợm bạn bè. Về nhiều vấn đề nổi cộm như nhân quyền hay khủng bố Pháp Luân Công, nhiều người Trung Quốc hoặc không quan tâm hoặc từ chối không nói đến. Giữ suy nghĩ của mình cho riêng mình và không nói sự thật đã trở thành một kỹ năng tồn tại cơ bản ở Trung Quốc. Cùng lúc, ĐCSTQ liên tục kích động tình cảm cộng đồng về chủ nghĩa dân tộc vào những dịp có thể. Ví dụ, ĐCSTQ có thể tổ chức cho người dân Trung Quốc ném đá vào đại sứ quán Mỹ và đốt cờ Mỹ. Nhân dân Trung Quốc có thể được đối xử như hoặc là một số đông ngoan ngoãn hoặc là một đám đông bạo lực, nhưng không bao giờ là những công dân có những nhân quyền được bảo đảm. Đề cao văn hóa là một cơ sở để nâng cao nhận thức của dân. Trong hàng ngàn năm các nguyên tắc đạo đức của Khổng Tử và Mạnh Tử đã thiết lập các tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức. “Nếu tất cả những nguyên tắc [đạo đức] này bị bỏ, thì sẽ không có luật nào được dân phải theo và dân không nhận thức được tốt và xấu. Họ sẽ mất phương hướng… Đạo sẽ đại loạn” [8]

Mục đích đấu tranh giai cấp của ĐCSTQ là liên tục tạo ra hỗn loạn, qua đó nó có thể vững vàng tự xây dựng mình thành một và chỉ một đảng mang tính tôn giáo thống trị duy nhất ở Trung Quốc, sử dụng ý thức hệ của Đảng để kiểm soát nhân dân Trung Quốc. Bộ máy chính phủ, quân đội và các phương tiện thông tin là tất cả các công cụ được sử dụng bởi ĐCSTQ để thực hành nền chuyên chính bạo lực của nó. ĐCSTQ, đã mang những bệnh tật không thuốc chữa tới Trung Quốc, tự nó đang đứng trên bờ của tiêu vong, và sự sụp đổ của nó là không thể tránh khỏi.

Một số người lo lắng rằng đất nước sẽ hỗn loạn nếu ĐCSTQ tan rã. Ai sẽ thay thế vai trò của ĐCSTQ lãnh đạo Trung Quốc? Trong 5.000 năm lịch sử của Trung Quốc, chỉ 55 năm bị cai trị bởi ĐCSTQ là ngắn như là một đám mây lướt nhanh. Tuy nhiên, không may mắn là trong khoảng thời gian 55 năm ngắn ngủi này, ĐCSTQ đã làm tiêu tan các niềm tin và tiêu chuẩn truyền thống; phá hủy các nguyên tắc đạo đức và cấu trúc xã hội truyền thống; biến quan tâm và yêu thưong giữa con người thành đấu tranh và căm thù; và đã thay thế sự kính ngưỡng trời, đất và tự nhiên bằng sự kiêu ngạo “người chinh phục tự nhiên”. Với các hành động phá hủy hết cái này đến cái khác Đảng đã tàn phá các hệ thống sinh thái, đạo đức và xã hội, để lại một đất nước Trung Quốc chìm sâu trong khủng hoảng.

Trong lịch sử Trung Quốc, mọi lãnh tụ nhân đức đều xem yêu thương, nuôi dưỡng và giáo dục dân là trách nhiệm của chính phủ. Bản năng của con người hướng thiện, và vai trò của chính phủ là hỗ trợ dân thực hiện bản năng này. Mạnh Tử đã nói, “Đây là đạo của dân: có kế lâu bền thì sẽ bền lòng, không có kế lâu bền thì sẽ không bền lòng”. (dân chi vi đạo dã, hữu hằng sản giả hữu hằng tâm, vô hằng sản giả vô hằng tâm) [9] Giáo dục mà không có thịnh vượng là không hiện thực; những kẻ lãnh đạo hung tàn không có tình thương dân mà lại giết những người vô tội, những kẻ lãnh đạo đó đáng bị nhân dân Trung Quốc khinh miệt.

Trong 5.000 năm lịch sử Trung Quốc, có nhiều nhà lãnh đạo nhân đức, như là vua Nghiêu vua Thuấn vào thời cổ, triều nhà Chu có vua Vũ, triều nhà Hán có hoàng đế Văn và hoàng đế Cảnh, hoàng đế Đường Thái Tông triều nhà Đường, hoàng đế Khang Hi và hoàng đế Càn Long triều nhà Thanh. Sự thịnh vượng trong những triều đại này tất cả đều là kết quả của việc những nhà lãnh đạo đã thực thi theo đạo trời, theo học thuyết trung dung, và phấn đấu vì hòa bình và ổn định. Các đặc điểm của loại lãnh đạo này là chiêu dùng người có đức và tài, rộng mở với những ý kiến khác nhau, đề cao công lý và hòa bình, và cho dân những gì dân muốn. Theo cách này, dân sẽ tuân luật pháp, giữ gìn lễ nghi, an cư lạc nghiệp.

Quan sát các vấn đề của thế giới, chúng ta thường hỏi ai quyết định một nước thịnh vượng hay biến mất, mặc dù chúng ta biết rằng sự nổi lên hay suy sụp của một quốc gia có những lý do của nó. Khi ĐCSTQ biến mất, chúng ta có thể hy vọng hòa bình và hài hòa sẽ trở lại với Trung Quốc. Nhân dân sẽ lại chân thành, thiện lương, khiêm tốn, khoan dung, và quốc gia sẽ một lần nữa quan tâm đến các nhu cầu cơ bản của nhân dân, và mọi nghề nghiệp đều sẽ thịnh vượng.

Chú thích:

[1] Từ “Biên niên sử về thực phẩm và hàng hóa” trong cuốn Hán Sử.

[2] Qian Bocheng, Văn hóa Phương Đông, ấn bản thứ tư, 2000.

[3] Cao Cương và Nhiêu Sấu Thạch đều là các thành viên của Ban Trung Ương. Sau thất bại tranh giành quyền lực vào năm 1954, họ bị buộc tội âm mưu chia rẽ Đảng và sau đó bị khai trừ khỏi Đảng. Hồ Phong, học giả và phê bình văn học, đã chống lại chính sách văn chưong cằn cỗi của ĐCSTQ. Ông bị khai trừ khỏi Đảng năm 1954 và bị kết án 14 năm tù. Từ năm 1951 đến 1952, ĐCSTQ khởi xướng các chiến dịch “Tam Phản” và “Ngũ Phản”, các cuộc vận động có mục tiêu được nói rõ là loại bỏ tham ô, lãng phí và quan liêu trong Đảng, chính phủ, quân đội và các tổ chức lớn.

[4] Lỗ Tấn (25/9/1881 –19/10/1936) thường được coi là người sáng lập ra văn học Trung Quốc bản xứ hiện đại. Ông cũng là một dịch giả nổi tiếng. Là một nhà văn cánh tả, Lỗ đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Sách của ông đã ảnh hưởng lớn lên nhiều thanh niên Trung Quốc. Trở lại Trung Quốc sau khi học y ở Sendai, Nhật bản vào năm 1909, ông đã trở thành một giảng viên tại Đại Học Bắc Kinh và bắt đầu viết từ đó.

[5] Bành Đức Hoài (1898-1974): Nhà lãnh đạo chính trị và tướng cộng sản Trung Quốc. Bành là tổng tư lệnh trong chiến tranh Triều Tiên, phó chủ tịch Hội đồng nhà nước, ủy viên Bộ Chính Trị, Bộ trưởng Bộ quốc phòng từ 1954-1959. Ông đã bị phế truất khỏi vị trí của mình sau bất đồng với các giải pháp cánh tả của Mao tại phiên họp toàn thể Lư Sơn của ĐCSTQ năm 1959.

[6] Triệu Cao (? - 210 trước CN): Tổng thái giám trong triều đại nhà Tần. Vào năm 210 trước CN, sau khi Hoàng Đế Tần Thủy Hoàng chết, Triệu Cao, thừa tướng Lý Tư và con thứ hai của Hoàng Đế là Hồ Hợi đã làm giả chúc thư của Hoàng Đế, đưa Hồ Hợi lên làm Hoàng Đế mới và ra lệnh cho hoàng thái tử Phù Tô phải tự tử. Sau đó xung đột xảy ra giữa Triệu Cao và Hồ Hợi (Nhị Thế Hoàng Đế), Cao đã mang vào hoàng cung một con hươu và nói nó là một con ngựa. Chỉ một số ít quan lại dám không đồng ý và nó nó là một con hươu. Triệu Cao tin rằng những viên quan gọi con vật là hươu chống lại mình và tìm cách bãi chức của họ.

[7] Cuộc Tàn Sát Đại Hưng xảy ra vào tháng 8 năm 1966 trong khi thay đổi lãnh đạo Đảng ở Bắc Kinh. Vào lúc đó Tạ Phú Trì, bộ trưởng Bộ Công an, đã có một bài diễn văn tại một cuộc họp Cục Công an tại Bắc Kinh, đã khuyến khích không can thiệp vào các hành động của Hồng Vệ binh chống lại “năm giai cấp đen”. Bài diễn văn này chẳng mấy chốc được chuyển tới cuộc họp Ủy Ban Lâm Thời của Cục Công an Đại Hưng. Sau cuộc họp, Cục Công An Đại Hưng ngay lập tức đã hành động là lên kế hoạch kích động những đám đông ở huyện Đại Hưng giết “năm giai cấp đen”.

[8] Từ Kang Youwei, Tuyển tập các bài viết chính trị (1981). Zhonghua Zhuju. Kang Youwei (1858-1927) là một nhà tư tưởng cải cách quan trọng trong thời Hậu Thanh.

[9] Từ Mạnh Tử.

Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, thời báo Đại Kỷ Nguyên

 

Trở về trang chính