Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

Một chiến lược dân chủ hoá để chống tham nhũng

Trần Độ

 

I. Tham nhũng là ǵ ?

1- Tham nhũng không chỉ là một tệ nạn xă hội, mà thật sự nó đă thành kẻ thù của mọi tầng lớp trong xă hội, kẻ thù của cả dân tộc, cả đất nước.

Sự phân tích về những xấu xa, tệ hại của tham nhũng cũng đă khá nhiều, khá đầy đủ. Những chữ dùng như "Quốc nạn", "giặc nội xâm" đă thật chính xác và cũng là tột cùng rồi. Cũng đă có rất nhiều những lời lên án, những kêu gọi, những nghị quyết , những quyết định , những chỉ thị, những nhắc nhở; lại c̣n có cả những tố chức và các cuộc vận động chống tham nhũng nữa. Không phải chỉ có thế, c̣n có cả những vụ kỷ luật, những cuộc trừng phạt, nhất là những vụ án, không ít án tử h́nh và chung thân, những bắt buộc bồi thường... những việc đó đă có tiếng vang ở trong nước và ngoài nước.

Nhưng cho đến nay th́ h́nh như dư luận xă hội cũng đă chán ngán, không c̣n muốn nói nhiều đến nó nữa. Nạn tham nhũng th́ vẫn chưa có dấu hiệu nào tỏ ra đă bị đẩy lùi. Không khí xă hội vẫn chưa trút bỏ được nỗi "day dứt" và "nhức nhối" về nạn tham nhũng. Những tố cáo gay gắt đối với những nhân vật tham nhũng vẫn bị d́m vào trong im lặng. Việc xử lư vẫn cố giữ thế cân bằng : vừa trừng phạt kẻ tham nhũng, lại vừa trừng phạt và cảnh cáo những người tố cáo, làm cho sự tố cáo một hồi rộ lên, rồi lại thấy yếu dần đi. T́nh trạng và tŕnh độ tham nhũng vẫn y nguyên như cũ.

2- Sở dĩ tham nhũng làm cho toàn xă hội bực bội và căm ghét là v́ nó có cả Tham và Nhũng. Tham là sự ăn cắp và ăn cướp trong đó chủ yếu là cướp ngày (cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan) là các quan ăn cắp và ăn cướp lấy bao nhiêu của cải của nhà nước, mà của nhà nước tức là của dân đóng góp vào. Cải thiện một mức lương cho những người ăn lương, ngân sách phải chi hơn 5.000 tỷ, mà một vụ tham nhũng ngân sách nhà nước cũng tổn thất hàng chục ngh́n tỷ. Thế th́ cái món "cướp ngày" rất là ghê gớm, không thể không căm ghét. V́ biết bao nhiêu đóng góp của dân cho đủ một vụ tham ? ? ? Tham th́ như thế, nhưng c̣n Nhũng cái nhũng nó lại càng rộng răi, càng đụng đến cuộc sống hàng ngày của mỗi người trong nhân dân. Đó là sự phiền hà, ngăn trở, dối trá, lừa lọc, hành hạ của các người có chút quyền lực của các cơ quan có quyền lực! Xin phép làm một việc ǵ, xin chứng nhận một điều ǵ, xin việc làm, xin đi học, xin chữa bệnh, xin ra nước ngoài... bất cứ việc ǵ cũng đều phải có tiền. Trong xă hội đă có một sự công nhận hiển nhiên, muốn làm việc ǵ th́ việc "đầu tiên" là phải có tiền, mỗi việc đă có thang giá (bareme) tiền được truyền khẩu nhau rất rơ ràng và công khai, một công việc muốn được việc càng bị đẩy sang nhiều khâu để được nhiều người được ăn tiền th́ càng tốt và mới có hiệu quả. Rồi có những khâu công việc được sáng tạo ra thêm để cố kiếm tiền lời : như trường học quy định học sinh phải may đồng phục theo đúng kiểu và mẫu vải của nhà trường. V́ nhà trường có thợ may và vải đúng mẫu bán; chữa bệnh phải mua thuốc chỗ người bán được giới thiệu v.v... Chế độ ta đầy ưu việt trong các vấn đề xă hội là giáo dục và y tế th́ chính trong các khâu giải quyết công việc của chữa bệnh và đi học lại bị hành hạ hơn cả. Rồi đến việc quản lư thị trường, thu nộp thuế, việc môi trường mỹ quan, yêu cầu xanh, sạch, đẹp, trật tự đường phố, trật tự giao thông. Những người dân nghèo là những người bị nhiều hăm doạ và hành hạ hơn ai hết. C̣n một nạn nhũng phức tạp nữa là các người, các cơ quan nắm pháp luật lại cố t́nh làm sai pháp luật (tiêu biểu như vụ án Dương Thị Nga ở quận Hoàn Kiếm tháng 11-1999). Hoặc những người có quyền lực v́ dốt hoặc v́ những lẽ khác nên có những quyết định sai hoặc bất công, rồi cố t́nh đun đẩy cho người khác, gây nên những oan khuất mà nhiều người bị oan đi kêu rêu hàng chục năm ṛng vẫn không xong. Một cuộc sống luôn bị hăm doạ và hành hạ th́ làm sao gọi là một cuộc sống yên vui cho được. Cho nên bên cạnh cái nạn Tham th́ cái nạn Nhũng làm cho ai nấy đều phải day dứt và nhức nhối.

 

II. Tại sao có tham nhũng và chống tham nhũng lại khó ?

Đến đây cần phải cùng nhau lư giải một điều quan trọng này, rồi sẽ bàn tiếp sau.

Tại sao lại có tham nhũng ? Và tại sao tham nhũng lại cứ phát triển, tại sao chống tham nhũng không có hiệu lực, càng chống nó lại càng tồn tại và phát triển ? ? ?

Mấy cái tại sao này có liên quan chặt chẽ với nhau !

- Có phải v́ có một số cán bộ, đảng viên thoái hoá biến chất không ? ? ?

- Có phải v́ kẻ địch âm mưu diễn biến hoà b́nh có các thủ đoạn phá hoại ta không ?

- Có phải cơ chế thị trường có mặt trái của nó mà ta không khống chế được để nó tác hại không ? ? ?

- Có phải v́ thu nhập chính thức của cán bộ công nhân viên nhà nước quá thấp không đủ sống, nên mọi người phải xoay sở ?

Có thể một số "nhà lư luận" có lập trường gang thép thuyết minh về các nguyên nhân nói trên một cách hùng hồn, có cả những chứng minh cụ thể.

Nhưng cuộc sống thực tế lại chứng minh một cách rơ rệt là mấy câu trả lời đó là không đúng. Con quỷ tham nhũng nó cứ như Phạm Nhan trong truyền thuyết cổ tích : chặt đầu này nó lại mọc đầu khác. Trong khi ta t́m những cán bộ tài đức vẹn toàn th́ hết sức khó khăn và hiếm hoi. Mỗi cái "có phải" kể trên đều có một chút tác động cả, nhưng không thể là nguồn gốc sâu xa của nạn tham nhũng.

Tai hoạ tham nhũng có những nguyên nhân cụ thể, trước mắt, nhưng nó có nguồn gốc sâu xa hơn, đó là nguyên nhân của mọi nguyên nhân.

Đại hội VI của Đảng Cộng Sản năm 1986 có nêu lên một ư kiến là nguyên nhân của những nguyên nhân các khuyết điểm là công tác tổ chức. ư kiến đó được các bậc lăo thành và rất nhiều người tán thưởng.

Nay phân tích tai hoạ tham nhũng, nếu không t́m ra nguồn gốc, tức là nguyên nhân của mọi nguyên nhân th́ không thể đề ra biện pháp chống có hiệu quả được.

Để thấu đáo vấn đề này, phải có những công cuộc phân tích kỹ và sâu các vấn đề lịch sử, các vấn đề học thuyết triết học, các vấn đề chính trị, xă hội học và tâm lư học.

Ở đây, một bài phát biểu ư kiến nhỏ không làm được việc to lớn đó. Ở đây chỉ nêu lên một ư kiến khái quát từ thực tế cuộc sống từ những hiện tượng hiển nhiên mọi người đều biết và từ những ư kiến nghe được nhiều từ trong nhân dân.

Một nguồn gốc quan trọng và to lớn sâu sắc của tệ tham nhũng là có sự lạm dụng quyền lực. Một sự thật hiển nhiên là chỉ có ai có quyền lực mới có thể tham nhũng, có quyền to th́ tham nhũng to, có quyền nhỏ th́ tham nhũng nhỏ. Nhân dân Thái B́nh rất thông minh và thâm thuư, khi đấu tranh chống tham nhũng ở cơ sở, tập trung hỏi các cán bộ lănh đạo của Đảng và chính quyền là :

- "Các ông cho chúng tôi biết là các ông làm thế nào mà các ông giàu nhanh như vậy ? Các ông cho chúng tôi kinh nghiệm để chúng tôi cũng làm giàu với !"

Quả là cái kinh nghiệm "dùng quyền thế" là không thể truyền cho những người không có quyền thế được.

Những sự lạm dụng quyền lực lại có nguồn gốc sâu xa của nó. Đó là những thể chế đă tạo ra những điều kiện, những hoàn cảnh làm cho người ta t́m được quyền lực và tự do dùng được quyền lực đó.

Đó là những thể chế quyền lực không có cơ chế ḱm hăm và giám sát. Những thể chế đó lại là con đẻ của một hệ thống chính trị và sự vận hành của hệ thống đó. Nguyên lư của hệ thống chính trị này là Đảng lănh đạo tuyệt đối, toàn diện, triệt để và độc tôn. Tất cả các tổ chức nhà nước, các tổ chức xă hội đều do ngân sách (tức là do nhân dân đóng góp) đài thọ và đều chỉ là công cụ xoay quanh Đảng, do Đảng chi phối, sử dụng; chỉ có nhiệm vụ phục tùng và chấp hành mọi ư kiến của Đảng, quy về danh nghĩa th́ vẫn có cái mác "của nhân dân". Những thể chế nói trên là thể chế tạo điều kiện cho người ta tự do và dùng thủ đoạn để t́m kiếm quyền lực và khi có quyền lực th́ tự do và tuỳ tiện dùng nó để mưu lợi và làm giàu.

Nói gọn lại th́ đó là những thể chế không dân chủ và tệ hơn là phản dân chủ. Những thể chế đó không để cho người dân được chút quyền nào để ḱm hăm và kiểm tra những người có quyền lực. Người dân chỉ có việc đi kêu xin và được những người có quyền lực ban phát ân huệ. V́ vậy mấy chữ quyền làm chủ của dân chỉ là những chữ có tính hài hước và mỉa mai rất cay đắng. Khi người viết bài này chú ư đến một văn kiện quan trọng của nhà nước đó là "pháp lệnh chống tham nhũng". Đọc kỹ th́ thấy pháp lệnh cũng chứng minh rơ rệt cái nguồn gốc nêu trên : Lạm dụng quyền lực :

Điều 3 của pháp lệnh liệt kê những hành vi tham nhũng, kể ra 11 hành vi th́ đến 7 hành vi có tên "lợi dụng và lạm dụng chức vụ", c̣n 4 hành vi khác th́ cũng chỉ có thể có ở những người có chút quyền thế nào đó.

Điều 13 liệt kê những việc cấm làm (9việc) th́ cũng nói rơ là những việc cấm người có chức vụ quyền hạn (v́ ai không có chức có quyền) th́ không thể làm việc tham và nhũng được.

***

Lập ra bộ máy nhà nước để quản lư xă hội, th́ bộ máy đó phải có quyền lực. Nhưng mà dân làm chủ th́ phải có cơ chế cho dân giám sát và kiểm soát quyền lực đó v́ hiến pháp đă ghi là "Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, v́ nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân..." (Điều 2- Hiến pháp 1992). Thế mà không có một thể chế nào, một cơ chế nào bảo đảm cho nhân dân thực hiện cái quyền cao quư đó. Ngược lại Hiến pháp lại ghi ở Điều 4 là "Đảng Cộng Sản Việt Nam... Là lực lượng lănh đạo Nhà nước và xă hội". Thế th́ chỉ có Đảng, Đảng là trên cả nhà nước, trên cả nhân dân, và đó là nguyên lư phản dân chủ lớn nhất.

 

III. Vai tṛ của Đảng Cộng Sản

Đến đây lại phải nói về Đảng Cộng Sản và vai tṛ của Đảng Cộng Sản.Trải 3 phần tư thế kỷ qua, lịch sử đă khẳng định rơ ràng vai tṛ quan trọng của Đảng Cộng Sản trong việc tổ chức, động viên toàn dân và lănh đạo của hai cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, nước nhà độc lập và thống nhất. Điều đó đă mang lại vinh quang cho Đảng một cách hiển nhiên. Cũng có điều hiển nhiên khác là : Thắng lợi và vinh quang ấy của Đảng đă phải trả bằng một cái giá khá cao và rất cao : đó là sự hy sinh gian khổ và tính mạng của hàng vạn Đảng viên của Đảng. Đó cũng là những bất hạnh ghê gớm giáng xuống đầu của hàng triệu gia đ́nh nhân dân mà hậu quả cay đắng ngày nay cũng có thể c̣n gặp luôn trên báo chí và trên khắp nẻo đường đất nước. Trong đó có cả những bất hạnh gây nên bởi những sai lầm, thất bại của Đảng( sẽ nói tiếp sau đây).

Nhưng có điều Đảng đă làm cái việc tự khen ḿnh tự biểu dương cái vẻ vang của ḿnh quá cao, quá nhiều và quá lâu. Điều đó cũng che lấp đi một sự thật cũng hiển nhiên khác là bên cạnh sự đúng đắn thắng lợi, trong lịch sử của ḿnh Đảng cũng mắc không ít sai lầm và có những thất bại nặng nề. Nhưng v́ cuối cùng th́ thắng lợi của ta lớn quá, cho nên những sai lầm và thất bại đó bị che lấp và quên lăng. Và cũng bởi v́ Đảng lại dùng phép biện chứng chứng minh rằng : mỗi lần thất bại, Đảng vẫn thu được thắng lợi lớn : đó là bài học kinh nghiệm tiến lên. Nhưng thực ra có những khuyết điểm sai lầm của Đảng mang tai hoạ cho toàn dân tộc, tàn phá số phận của hàng vạn gia đ́nh và hàng triệu con người. Đó là những thất bại của Xô Viết Nghệ Tỹnh (1930), của khởi nghĩa Nam kỳ\(1940). Đó là sai lầm của cải cách ruộng đất (1955- 1956), cuộc cải tạo xă hội chủ nghĩa. Đó là sai lầm về đường lối của Đại hội IV sau toàn thắng, làm cả dân tộc rơi vào khốn đốn; đó là sai lầm tuỳ tiện nhập vào tách ra các địa phương tốn kém nhiều tiền và ngăn trở phát triển; sai lầm của những vụ án oan mà Đảng đă xử lư một cách tuỳ tiện độc đoán cũng tác hại cho xă hội không kém, càng về sau sự thật càng chứng tỏ những vụ án đó là oan sai, chỉ có cải cách ruộng đất là có sự "sửa sai" đàng hoàng. Tuy vậy sửa sai cũng chỉ làm cái việc hốt lại bát nước đă đổ xuống đất. C̣n các vụ khác, đảng lẳng lặng sửa sai tí chút, nhưng cứ lờ đi không công khai tuyên bố rơ sai lầm và sửa sai. Đảng cứ làm ra vẻ "không bao giờ có sai lầm" và mọi việc làm nho nhỏ để sửa sai th́ lại chứng minh là "tinh thần nhân đạo khoan hồng cao cả" của Đảng ban phát cho các nạn nhân. Thậm chí có ai công khai nói lên sự sửa sai đó, Đảng c̣n kỷ luật khai trừ nữa. Đảng luôn luôn t́m mọi cách để chứng tỏ (nhất là hệ thống công tác tư tưởng văn hoá cứ nói lấy được) rằng : Đảng Cộng Sản chỉ có thắng lợi, hết thắng lợi này sang thắng lợi khác, chỉ có sáng suốt và tài t́nh; có thất bại cũng thắng lợi, có sai lầm cũng sáng suốt, tài t́nh, không bao giờ có thất bại, không bao giờ có sai lầm. Chính v́ thế đảng cả cố ư cả vô t́nh cứ che dấu những cái sai lầm khuyết điểm một cách có hệ thống. Trong khi ấy nguyên lư xây dựng Đảng là "lấy phê b́nh và tự phê b́nh làm quy luật phát triển của Đảng". Đảng tạo nên một thói quen : cứ nói một đằng làm một nẻo, đến nỗi thói quen ấy trở thành nét chủ yếu và bản chất của Đảng; nhân dân không thể gửi được ḷng tin của ḿnh vào đảng nữa.

Đảng Cộng Sản Việt Nam có một lịch sử vẻ vang rực rỡ thật, nhưng Đảng khai thác quá mức, quá lâu cái vẻ vang đó và cứ t́m cách không thừa nhận thậm chí che dấu các sai lầm và thất bại của ḿnh. Như vậy th́ chỉ làm tổn thương và xói ṃn cái vẻ vang rực rỡ của ḿnh, hơn nữa lại phản lại nguyên tắc của ḿnh là không chịu phê b́nh và tự phê b́nh. Mong rằng Đảng nhận rơ nguyên lư này.

***

Hiện nay đảng đang thực hiện việc "lănh đạo tuyệt đối" thực chất là độc tôn chuyên chế phản dân chủ. Đảng cũng tự cảm thấy ḿnh không dân chủ, cho nên phải ban hành chủ trương quy chế dân chủ cơ sở, làm như chỉ có mất dân chủ ở cơ sở thôi. Trước đây trong chiến tranh giải phóng, yêu cầu của cuộc sống chiến đấu là chí căm thù, ḷng dũng cảm, chí sẵn sàng hy sinh chịu đựng gian khổ. Lúc đó đảng Cộng Sản và những đảng viên của ḿnh đă là tiêu biểu xứng đáng cho những yêu cầu đó. V́ thế đảng là niềm tin và ánh sáng của nhân dân.

Ngày nay trong cuộc sống hoà b́nh và xây dựng, yêu cầu cuộc sống là trí thức là chuyên môn, là sự công bằng, trung thực. Đảng Cộng Sản với hệ thống chính trị như trên, và Đảng nắm trọn quyền lực, liền theo đó là các thứ quyền lợi, th́ nhân dân thấy Đảng khác đi rồi. Đảng càng cố chứng minh là của nhân dân, v́ nhân dân, th́ cuộc sống lại càng chứng minh ngược lại. Đảng có thể giữ vị trí trong hệ thống chính trị, nhưng không giữ được vị trí trong ḷng dân. Càng ngày đảng càng tỏ ra không tiêu biểu cho trí tuệ, sự công bằng và trung thực. Thực ra đảng đă phải lo ngại về cái mất dân chủ của ḿnh, nên giới lư luận chính thống đă phải tổ chức hội thảo vấn đề : Một đảng lănh đạo có thể có dân chủ được không ? Như vậy là đă cảm thấy ḿnh kém dân chủ phản dân chủ ; phải t́m ra cái lư luận nói rằng Đảng lănh đạo độc tôn cũng vẫn dân chủ được. Khốn khổ thế !

Trong cuộc thảo luận ở một báo cáo đề dẫn có nêu lên rằng : Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền có những trở ngại và nguy cơ như sau :

1- Chủ quan, duy ư chí và quan liêu trong xác định chủ trương đường lối.

2- Đảng dễ áp đặt ư chí của ḿnh với Nhà nước và xă hội sắp đặt người của đảng vào các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể xă hội, tự đặt ḿnh lên trên nhà nước và pháp luật, bao biện làm thay công việc của Nhà nước mà không chịu trách nhiệm pháp lư nào về trách nhiệm cuả ḿnh.

3- Hệ thống các đoàn thể xă hội có thiên hướng về Đảng (nịnh đảng, chỉ chấp hành nhiệm vụ trước đảng) hơn là làm tṛn trách nhiệm đại biểu cho nguyện vọng, lợi ích của đoàn viên, hội viên mà ḿnh là đại diện.

4- Các đảng viên có chức có quyền đă sa vào đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, cửa quyền gây phiền hà cho dân.

5- Người dân rất khó kiểm tra, giám sát được các cơ quan có quyền lực (gồm toàn người của Đảng)

6- Dân chủ xă hội bị vi phạm quá mức th́ sẽ đổ vỡ tất cả (từ chính quyền đến đảng)

Thực ra, đó là những sự thật đang diễn ra và đă diễn ra, những sự thật cay đắng nói lên t́nh trạng phản dân chủ, chứ chắng phải nguy cơ ǵ nữa. Có điều sự đổ vỡ là nguy cơ có thật.

Các "nhà lư luận" nêu lên một lập luận là một Đảng lănh đạo cũng có thể dân chủ được và nêu lên là cần phải có các điều kiện. Các điều kiện nêu lên rất mơ hồ và trừu tượng, ví dụ :

-Phải là Đảng chân chính cách mạng

- Phải có dân chủ trong Đảng.

- Phải có trí thức, năng lực, bản lĩnh cao.

- Phải có phương thức tổ chức và lănh đạo đúng đắn v.v..

Đề ra điều kiện như thế rồi Đảng cứ tự nhận là ḿnh đă có đầy đủ điều kiện như thế và yên trí như vậy để duy tŕ sự lănh đạo độc tôn của ḿnh th́ ai biết đấy là đâu ? ? ?

Trong chiến tranh giải phóng, Đảng đă từng là tiêu biểu cho sự hy sinh, ḷng dũng cảm chiến đấu và đă hưởng cái vinh quang ấy rồi. Ngày nay trong hoàn cảnh xây dựng đất nước, trong t́nh thế cả thế giới và nhân loại đang biến động. Có thể nói chắc rằng Đảng dù có 3 triệu đảng viên cũng chỉ là 1/25 toàn dân tộc, không thể là nơi tập trung hết được trí tuệ của dân tộc, không thể được toàn dân tộc thừa nhận như vậy.

Trong một cuộc hội thảo có một đồng chí lăo thành đă đặt ra 3 câu hỏi :

1- Hiện nay Đảng Cộng Sản có phải là nơi tập trung và tiêu biểu cho trí tuệ của toàn dân tộc không ?

2- Ban chấp hành Trung ương của Đảng có tập trung và tiêu biểu được cho trí tuệ của toàn Đảng không ?

3- Bộ chính trị hiện nay có tập trung và tiêu biểu cho trí tuệ của toàn trung ương không ?

Với t́nh h́nh trong Đảng hiện nay có tới 1/3 là các Đảng viên lăo thành mà toàn dân tộc đă có hàng nhiều triệu trí thức cũ và mới ; th́ người đặt câu hỏi như trên tức là vừa đặt câu hỏi đồng thời đă trả lời là "không" rồi.

Vấn đề là ai là người đánh giá Đảng với những điều kiện như vậy ? Trong khi Đảng bắt mọi người phải nói một lời ; trừng phạt và bỏ tù tất cả những người nói khác.

Cứ thực hiện phản dân chủ rồi rêu rao là dân chủ tuyệt vời mà không ai được nói khác. Những nguy cơ và trở ngại mà hội thảo nêu lên ở trên là nguồn gốc của tham nhũng. Chỉ có khẳng định nguồn gốc như thế mới t́m được con đường khắc phục tham nhũng.

Hầu như nước nào cũng có tệ nạn tham nhũng. Tệ nạn ấy thường gắn liền với tệ quan liêu và thiếu dân chủ. ™ Việt Nam nó là căn bệnh nan y v́ nó gắn liền với quan liêu và phản dân chủ.

 

IV- Chống tham nhũng thế nào ?

Bây giờ vấn đề đặt ra là công cuộc chống tham nhũng cần tiếp tục thế nào ? Có biện pháp nào khác nữa không ? Các biện pháp cũ (lên án, vận động, lập tổ chức) cần có cường độ và mật độ cao hơn nữa được không ? Có thêm nhiều vụ xử án và án tử h́nh hơn nữa hay không ? Bắt bồi thường nhiều hơn nữa liệu có cải thiện được ngân sách chút nào không ? Nhân dân có thể cởi bỏ được khỏi ách THAM và NHUNG hay không ?

Xin nói ngay rằng phải có một phương pháp hay lớn hơn phương pháp là một chiến lược. Có một chiến lược chống tham nhũng như thế nào đó, có thể chưa diệt ngay được nạn tham nhũng, nhưng ít nhất có thể ngăn chặn, đẩy lùi từng bước, và nếu chiến lược này được tiếp tục phát triển th́ có nhiều triển vọng đẩy lùi hẳn và đánh bại hẳn được giặc tham nhũng. Chiến lược đó không có ǵ mới lạ, nó đă được ghi vào ở nhiều nghị quyết, nhiều văn bản và nhất là nó đă được ghi một cách trịnh trọng vào hiến pháp năm 1992, chẳng có ǵ là xa lạ. Đó là "CHIẾN LƯỢC DÂN CHỦ". Ta vẫn tự hào, chế độ của ta là chế độ DAN CHU, và ta đă nói khá nhiều về dân chủ, nhưng chỉ tiếc rằng điều đó chỉ mới nằm chơ vơ trên mặt giấy. Cho nên bây giờ phải gọi là CHIẾN LƯỢC DÂN CHỦ HOÁ. Nghĩa là phải HOÁ cái dân chủ trên giấy thành dân chủ thực sự trong cuộc sống.

Hiến pháp 1992 đă có một chương, chương V nói về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chương đó có 34 điều. Trong đó đặc biệt có điều 59 nói về quyền thảo luận và tham gia quản lư nhà nước- Điều 54 về quyền bầu cử ứng cử - Điều 60 về quyền tự do nghiên cứu sáng tác- Điều 69 về tự do thông tin, báo chí, tự do lập hội và Điều 74 về quyền khiếu nại tố cáo...

Các Điều của Hiến pháp phần lớn đều có một cái đuôi : " theo luật định", xong rồi lại có những đạo luật ngược lại với tinh thần của điều Hiến pháp ấy. Gần đây chỉ có luật kinh doanh có vẻ phù hợp với điều 57 về quyền tự do kinh doanh. C̣n đi sâu vào tư tưởng của các luật th́ đều có vấn đề; sẽ nêu một số điểm ở phần sau.

Tham nhũng đă thành "quốc nạn" và "nội xâm" th́ tai nạn đó không phải là nhỏ, không phải là ở tầm chiến thuật và chiến dịch. Nó đă vượt lên trên tất cả các tai hoạ, kể cả" tai hoạ an toàn giao thông", tai hoạ "ma tuư" và HIV. Đó là những tai hoạ lớn ảnh hưởng đến an toàn xă hội, đến tương lai của giống ṇi. Nhưng tai hoạ tham nhũng c̣n lớn hơn thế nữa. Nó mang lại nguy cơ tồn vong của cả một chế độ, tồn vong của một nhà nước ; nguy cơ tan ră cả một hệ thống chính trị. V́ vậy, nó là tai hoạ có "tầm cỡ chiến lược" và v́ vậy không thể chống nó, đấu tranh với nó bằng các "mẹo vặt" ở tầm cỡ chiến thuật và chiến dịch. Phải đấu tranh với nó bằng cả một chiến lược và các biện pháp chiến lược. Như trên đă nói, phải có cả một chiến lược dân chủ hoá. Chỉ có một chiến lược dân chủ mới đấu tranh lại được với tai hoạ tham nhũng.

Chiến lược đó phải bao hàm tư tưởng chỉ đạo chiến lược và các biện pháp chiến lược. Các biện pháp ấy phải nhất quán với nhau và với tư tưởng chiến lược.

Về tư tưởng chiến lược ta đă có đây đó ghi trong Hiến pháp, trong các lời nói của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, trong các văn kiện của Đảng Cộng Sản và trong cả những lời nói của nhiều nhân vật lănh đạo. Nhất là tư tưởng đó cũng được bộc lộ nhiều lần, nhiều nơi ở trong nguyện vọng của nhân dân. Nhưng những tư tưởng ấy chưa được nhất quán trong một sự lănh đạo, chỉ đạo quán triệt sâu sắc và vô tư. Nói một cách khác chưa có một cơ quan lănh đạo coi chiến lược dân chủ là một chiến lược nhất quán, chưa quyết tâm và dũng cảm đứng về phía dân chủ, tức là đứng về phía nhân dân. Cơ quan lănh đạo hoặc những người lănh đạo nhiều lúc tỏ ra ngược lại với nhân dân, tỏ ra ưu ái và bênh vực những người tham nhũng và những tṛ tham nhũng.

Ví dụ như sau :

a) Có việc, nhân dân mà đại diện là các vị lăo thành đáng kính ở Hà Nội tố cáo. Sự tố cáo này có phần đúng mà có thể có phần chưa đúng hoàn toàn. Nhưng thái độ của lănh đạo là thanh minh cho người bị tố cáo ; truy hỏi và trừng phạt các người tố cáo. Đảng khai trừ những người tố cáo. Vậy là như nhân dân đă nói : lănh đạo và Đảng bao che cho tham nhũng và trừng phạt những người chống tham nhũng.

b) Các luật đă ban hành đều có ư đề pḥng ngăn ngừa những người nói sự thật (luật h́nh sự, luật báo chí) đều có điều khoản quy một tội là : "lợi dụng tự do, dân chủ...", về phía nhân dân mà nói, người ta có quyền tự do dân chủ - đó là quyền của người ta th́ người ta có quyền dùng nó để bảo vệ lợi ích cho ḿnh. Tại sao lại có điều luật cấm lợi dụng (tức là dùng) quyền tự do dân chủ. Như thế là luật pháp Nhà nước công khai tuyên bố cấm tự do dân chủ.

c) Pháp lệnh chống tham nhũng ra đời chỉ để đánh lừa nhân dân, tuyên bố là nhà nước chống tham nhũng, nhưng đọc kỹ ở khoản 2, điều 19 (trang 20) th́ thấy ghi : "2- Nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng quyền tố cáo để vu cáo làm thiệt hại đến danh dự, uy tín và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Người vu cáo phải bị xử lư nghiêm minh theo quy định của pháp luật". Vậy th́ ta thấy mấy điểm như sau :

Đúng "vu cáo" là một tội. Khi có sự điều tra có đầy đủ chứng cớ của một sự vu cáo th́ trị tội. Khoản này chỉ cần có câu cuối cùng nói về tội vu cáo. C̣n cả đoạn trên th́ lại thể hiện sự bênh che và bảo vệ những kẻ tham nhũng. Nếu chính quyền nhà nước và cơ quan lănh đạo biểu thị quyết tâm chống tham nhũng th́ phải khuyến khích sự tố cáo rộng răi của nhân dân. Những kẻ tham nhũng có thể dễ dàng dấu cấp trên, dấu cơ quan nhưng không thể nào dấu được tai mắt nhân dân. Những kẻ đó làm bao nhiêu nhà, ở đâu đứng tên ai, tốn bao nhiêu tiền, ăn tiêu như thế nào, gửi tiền ở những đâu, nhân dân đều biết rơ cả và họ thường trao đổi với nhau ở hè phố, ở chợ, ở quán. Nếu cơ quan lănh đạo có quyết tâm chống tham nhũng th́ hăy cho thu thập các nguồn tin đó. Những tin đó có thể đánh giá như sau : cứ một trăm (100) tin th́ 50% là không hoàn toàn đúng, 30% là sai hoàn toàn, c̣n 20% là gần đúng và đúng. Nếu trân trọng ư kiến của dân th́ trân trọng cái 20% kia và thu thập cái 50% mà chọn lọc, thậm chí cái 30% cũng đáng quan tâm. Một trăm tin mà chỉ có 1,2 tin đúng cũng là đáng quư.

Chưa khuyến khích sự tố cáo của nhân dân đă đ̣i nghiêm trị "tội lợi dụng quyền tố cáo" th́ không phải là chống mà là bênh tham nhũng. Ở Hàn Quốc dân c̣n gửi cho chính phủ những "Danh sách đen" tố cáo rơ tên những kẻ tham nhũng là quan chức cao cấp. Như vậy ở Hàn Quốc quyền tố cáo được tôn trọng và khuyến khích. Ở ta, cũng có những người gửi đến lănh đạo các danh sách đen - có danh sách hai tên, có danh sách bảy tên. Nhưng những thứ ấy bị vứt vào im lặng lâu dài. Tuy đă nhận được những"danh sách đen" nhưng ở Hàn Quốc người ta c̣n điều tra nghiên cứu, chứ có phải là cứ tố cáo th́ xử tội ngay đâu! Tuy nhiên ít nhất cũng là có sự cảnh cáo đối với các tên đó và nhân dân được thực hiện quyền tố cáo sẽ phấn khởi, có ǵ là hỗn loạn và không ổn định đâu.

Vấn đề đặt ra là nhà nước và lănh đạo có thực ḷng đứng về nhân dân để quyết tâm chống tham nhũng không ? hay là vẫn xót xa muốn bênh vực cho tham nhũng. Bao nhiêu lời lẽ hùng hồn, không che dấu được t́nh h́nh này. T́nh h́nh cứ như mấy điểm vừa nói trên th́ tham nhũng chỉ có nặng thêm chứ làm sao mà chống được tham nhũng.

***

Ngoài vấn đề tư tưởng chỉ đạo của nhà nước ra c̣n một vấn đề chiến lược khác có tầm quan trọng hơn. Nó bao trùm tất cả, chi phối tất cả, tác động tất cả. Bởi v́ nó quyết định được việc loại trừ sự lạm dụng chức quyền bằng cách bộ máy nhà nước vận hành trong" một cơ chế hăm" có hiệu lực và đặt dưới sự giám sát thật sự của nhân dân. Như vậy phải loại trừ sự độc tôn và chuyên chế - đồng thời phải có một cơ cấu hợp lư cho hệ thống chính trị với mấy nguyên tắc :

- Tập trung quyền điều khiển quản lư đất nước và nhân dân trong tay các cơ quan nhà nước tức Quốc Hội và Chính phủ.

- Đảng giữ vai tṛ là một tổ chức chính trị có quyền giới thiệu Đảng viên của ḿnh ra tranh cử các vị trong Quốc hội và Chính phủ. Tranh cử chứ không phải Đảng quyết định bổ nhiệm, quyền chọn lựa phải để dân tự do.

Đảng có quyền dùng trí tuệ và học thuyết của ḿnh để phân tích t́nh h́nh thế giới và nhà nước, đề xuất những dự kiến chính sách, và những người khác ngoài Đảng cũng có quyền như vậy. C̣n quyền quyết định là do Quốc hội và Chính phủ tiếp thu, cân nhắc rồi chọn lọc và quyết định. Đảng không được quyết định thay cho cơ quan nhà nước và bắt cả xă hội phải tuân theo.

Như vậy không có ǵ là hạ thấp vai tṛ của Đảng mà chỉ tước cái quyền độc đoán và chuyên chế của Đảng. Điều này Đảng cộng sản chân chính cũng không hề chủ trương.

V́ vậy, vấn đề chiến lược bao trùm là phải cải cách hệ thống chính trị, định lại cơ cấu hệ thống chính trị. Phải phân biệt rơ cơ quan nhà nước do nhân dân nuôi với tổ chức xă hội (dù là tổ chức chính trị xă hội) phải tự nuôi, không thể Nhà nước hoá tất cả các tổ chức xă hội mà thực chất là trói buộc các tổ chức xă hội vào guồng máy của Đảng. Các tổ chức xă hội phái tự nuôi và có quyền độc lập của ḿnh. Phải định lại nguyên tắc vận hành của hệ thống chính trị. Phải có nguyên tắc là mọi tổ chức xă hội phải độc lập và b́nh đẳng với nhau, không thể có tổ chức cha và tổ chức con được. Nhà nước chỉ có thể trợ cấp một cách rất hạn chế cho Đảng Cộng Sản và Mặt trận tổ quốc chứ không thể gánh vác sự đài thọ cho hàng trăm tổ chức và lại phải cung cấp theo lệnh của Đảng. Phải đi tới thực hiện 3 quyền phân lập, mà xoá bỏ sự bao biện của Đảng.

Đấy cũng là một trong nền tảng của nền dân chủ, và là vấn đề quá lớn cần phải giải quyết dần dần. Nhưng trước sau ǵ th́ cũng phải giải quyết. V́ vậy sau này sẽ c̣n phải nói tiếp.

Chiến lược dân chủ hoá trước mắt đ̣i hỏi những người có thực tâm chống tham nhũng phải nghĩ ngay đến những biện pháp chiến lược trước mắt và có thể thực hiện ngay (những biện pháp khả thi).

***

Biện pháp chiến lược thứ nhất là bảo đảm cho nhân dân thực hiện được quyền giám sát và quyền bày tỏ nguyện vọng chống tham nhũng của ḿnh. Biện pháp này bao hàm một tư tưởng chỉ đạo là bảo đảm cho toàn dân được tự do bày tỏ nguyện vọng, bộc lộ được hiểu biết của ḿnh về nạn tham nhũng, tự do cung cấp thông tin về các hành vi tham nhũng. Điều này bao gồm :

- Phải có và thực hiện tư tưởng chỉ đạo là khuyến khích mọi nguyện vọng chống tham nhũng. Từ trước việc ǵ ta cũng nói chống tham nhũng là nhiệm vụ của toàn dân. Nhưng trước đây ta nêu khẩu hiệu nhiệm vụ của toàn dân th́ thường chỉ nói : với ngụ ư dân là tay sai, công cụ, phải chấp hành những nhiệm vụ của lănh đạo; phải ủng hộ và cộng tác với công an, thực chất phải làm tay sai cho công an. Nhiệm vụ chống cái ǵ th́ cũng công an làm ṇng cốt : từ chống buôn lậu, chống ma tuư, giữ trật tự xă hội... đều là như thế. Công an là ṇng cốt, c̣n dân th́ phải giúp đỡ, phải báo cáo, phải cung cấp thông tin, chưa bao giờ lănh đạo biểu lộ ư thức coi dân là chủ; vậy chống tham nhũng th́ các cơ quan nhà nước phải đặc biệt khuyến khích nhân dân tự động tố cáo mọi hành vi tham nhũng. Phải sửa ngay luật báo chí và xuất bản, đảm bảo mọi người tự do viết báo, làm báo, tự do sáng tác văn học, tự do viết và tự do in. Như thế mới có phương tiện cho nhân dân tự do chống tham nhũng và cũng chỉ là để cho nhân dân thực hiện quyền dân chủ cơ bản của ḿnh mà thôi. Việc này phải được thực hiện trong quyền tự do báo chí và xuất bản. Có tự do báo chí và xuất bản, các văn nghệ sĩ và trí thức mới thực hiện được quyền ăn nói của ḿnh, quyền nói lên những ư kiến và nguyện vọng của nhân dân. Nhân dân mới có nơi để gửi gắm những ư kiến nguyện vọng của ḿnh. Nhà nước thường tự xưng là của nhân dân, nhưng thực sự bộ máy nhà nước ít khi tôn trọng ư kiến của dân và cũng không nghe hết được mọi thứ ư của dân. Bộ máy nhà nước thường tách khỏi nhân dân và coi dân là đối tượng cai trị của ḿnh. Phải để cho dân có phạm vi rộng lớn phát biểu ư nguyện của ḿnh, gửi gắm ư nguyện, văn nghệ sĩ trí thức là những thành phần trong nhân dân. Không được quan liêu hoá, Nhà nước hoá các cơ quan ngôn luận và khống chế các cơ quan ngôn luận. Trước ta nói lư thuyết là dưới chính quyền cách mạng th́ các quyền dân chủ của dân có các phương tiện của nhà nước bảo đảm (bầu cử, in, báo chí). Nhưng thực tế luật của ta chỉ bảo đảm cho các tổ chức (Nhà nước) có các quyền ấy, mà Nhà nước th́ đă tách khỏi dân. Rút cuộc dân chẳng có quyền mà cũng chẳng có phương tiện ǵ để thực hiện quyền của ḿnh.

Có thể có nhiều người ngại tự do ngôn luận sẽ làm cho t́nh h́nh xă hội rối loạn, kẻ xấu lợi dụng. Đó chỉ là lư do của những người sợ dân. Kẻ xấu đă lợi dụng t́nh trạng không có tự do ngôn luận nhiều hơn. Nếu có tự do ngôn luận, tự do thông tin th́ kẻ xấu không lợi dụng được; nhân dân không phải ngóng ra nước ngoài để biết tin thực ở trong nước. Các nước phát triển thực hiện tự do ngôn luận không hề có bất ổn định. Tự do ngôn luận đều có tác dụng ngăn ngừa, răn đe cán bộ nhà nước và cả các nguyên thủ không được lạm dụng quyền lực. Ta ngăn cấm tự do ngôn luận tức là khuyến khích tự do lạm dụng quyền lực, tự do tham nhũng.

Tự do ngôn luận (báo chí, xuất bản) là một biện pháp chiến lược hiển nhiên để chống tham nhũng.

Biện pháp chiến lược thứ hai là phải chỉnh huấn gắt gao cho cán bộ và các cơ quan nhà nước thấm nhuần ư thức và tâm lư là người làm công (là công bộc, đầy tớ) cho nhân dân, không được coi công việc ḿnh làm là doạ nạt, đ̣i hỏi nhân dân, cũng không phải là ban ơn làm phúc cho nhân dân. Dù cho có những người đi dẹp trật tự đường phố, giữ luật đi đường, đi thu thuế, đi soát xét việc này việc khác th́ không được coi ḿnh là trên nhân dân, bắt buộc nhân dân, mà phải là người thương lượng với dân. Những người ngồi bàn giấy để đóng dấu, để kư chứng nhận, để trả lời những câu hỏi th́ phải lễ phép với dân, không được tự coi là người cho phép, người dẫn dắt dân. Người bán hàng c̣n coi người mua là thượng đế và nêu phương châm :" khách hàng luôn luôn đúng"; vậy th́ người cán bộ nhà nước cũng phải có thái độ coi dân là thượng đế, là cha mẹ, anh chị. Điều này Bác Hồ đă nói nhiều.

Nhưng trong cuộc sống thực tế hiện nay th́ người cán bộ nhà nước, anh công an cứ là những người cao hơn, có quyền hơn, đáng sợ hơn, c̣n là người thường dân th́ kém hơn. Ai muốn nhún ḿnh nữa c̣n xưng là phó thường dân. Không khí xă hội như vậy th́ người nhà nước, các ông quan cứ tha hồ mà lạm quyền, người dân cứ tha hồ mà chịu đựng, không có quyền ǵ, phương tiện ǵ để ngăn chặn sự lạm quyền. Sự lạm quyền không được ngăn chặn th́ tự nhiên là có tham nhũng và không chống được tham nhũng. Chỉ có một sinh hoạt dân chủ, tạo một không khí xă hội mà dân thực sự làm chủ th́ mới có hiệu quả chống tham nhũng. Nếu không, th́ bao nhiêu sự đề cao đạo đức như :"Y đức", "Giáo đức", "Báo đức" chỉ là tṛ cười, tṛ hô hào suông, tṛ giả dối.

Một biện pháp chiến lược nữa để bảo đảm quyền dân chủ cho dân : đó là phải rà soát lại toàn bộ các luật bầu cử trong Đảng cũng như trong xă hội. Xây dựng luật bầu cử theo hướng bảo đảm thật sự tự do ứng cử và tự do bầu cử. Chỉ có sự giới thiệu, c̣n sự vận động tranh cử cũng phải tự do thoải mái. Cần bác bỏ, triệt tiêu hết các thủ đoạn g̣ bó qua sự hiệp thương của mặt trận mà thực chất chỉ là g̣ ép chấp nhận ư kiến chỉ đạo của Đảng (các cấp uỷ). Những thủ đoạn đó làm nản ḷng nhiều thanh niên và trí thức. Do đó che lấp mất nhiều nhân tài và mầm non nhân tài. V́ vậy chung quy lại cũng chỉ rơ ra có một chân lư đơn giản này : chỉ có dân thực sự làm chủ, chỉ có một cuộc sống xă hội thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ cơ bản của người dân th́ xă hội mới lành mạnh, mới chống được tham nhũng.

H́nh như có người lại lo rằng : dân ta dân trí c̣n thấp, giao cho nhiều quyền dân chủ th́ dân cũng không biết dùng và dùng lung tung, lại có hại cho xă hội.

Vậy xin hỏi chờ đến bao giờ mới giao được quyền dân chủ cho dân ? ? ? Không giao cho dân th́ bao giờ dân mới biết dùng. Giao mà chưa giao đă doạ bỏ tù người dùng( lợi dụng) th́ bao giờ mới giao được ?

Có người ngại kẻ địch lợi dụng ? ? ? Ai là kẻ địch bây giờ ? Trong khi ta cần làm bạn với tất cả mọi người trên thế giới. Như trên đă có chỗ nói : Chính v́ chính quyền ta không dân chủ th́ những người trên thế giới (cả người tốt và người xấu) họ đang đều xỉa xói chê bai, và họ tỏ ra không muốn giao lưu, không hợp tác không đầu tư.

Không khí xă hội có dân chủ th́ đúng là nó sẽ không yên ổn, nó luôn sôi động, nhiều tiếng nói và như thế không phải là không ổn định.

Không nên coi thường nhân dân ta quá. Nhân dân ta có ư thức chính trị rất cao, nhân dân Thái B́nh đă phẫn nộ rất cao mà không khí vẫn ôn hoà và kiên nhẫn. Nhân dân không ai muốn xáo động và mất ổn định. Nhưng phải để cho dân thực hiện quyền làm chủ của ḿnh. Không ai thay dân chống được tham nhũng. Những người có quyền lực và cứ luôn lo sợ bị mất quyền lực là những người không chống được tham nhũng và chỉ có dung túng tham nhũng.

***

Thưa các bạn đọc,

Tôi đă từng ngẫm nghĩ nhiều năm nhiều tháng về chuyện chống tham nhũng. Đến nay không thể không viết ra. Khi tôi viết tôi bị nhiều xúc cảm chi phối, nhiều ư tưởng cứ dồn dập ùa vào đầu óc và tràn ra ng̣i bút. Tôi không thể chút bỏ được tâm lư trách nhiệm của một người đă cả đời chiến đấu cho đất nước và cho nhân dân; cũng gần hết cuộc đời là Đảng viên Đảng cộng Sản. Tôi đă từng tự hào và hănh diện về lịch sử của Đảng và đến bây giờ tôi vẫn tự hào và hănh diện như thế. Nhưng tôi cũng đă nhiều phen đau xót và xấu hổ v́ đảng, nhất là những lúc đối mặt với những nỗi bất hạnh của nhân dân nói chung và các nạn nhân nói riêng. V́ thế tôi không thể nào nói về đảng khác đi được!

Nh́n lại bài viết thấy nói quá dài và hơi lằng nhằng, nhưng bớt đi đoạn nào cũng tiếc. Tôi đành cứ để nguyên và thêm vào một trang tóm tắt cho bạn đọc đỡ bị rối mắt, rối ḷng.

Cảm ơn

Tháng 4-2000

Tháng 3 Canh Th́n

Trần Độ


Tóm tắt chiến lược dân chủ hoá chống tham nhũng

1- Có tham nhũng là do có sự lạm dụng chức quyền.

2- Có sự "lạm dụng chức quyền" là do có một hệ thống chính trị không dân chủ và thể chế vận hành của hệ thống đó cũng không dân chủ. Đó là :

Một Đảng độc tôn, độc quyền chuyên chế, đẻ ra một nhà nước kềnh càng, quan liêu, năng lực kém và Đảng ra sức tuỳ tiện sai khiến, nhào lặn cái nhà nước này trong tay\(kể cả Quốc hội và Chính phủ).

Hệ thống chính trị không dân chủ nuôi dưỡng sự lạm quyền và cả sự lộng quyền. Cái hại nhất là hệ thống chính trị không dân chủ lại không có một cơ chế hăm nào, không có một sự giám sát nào của nhân dân (v́ quyền tự do ngôn luận bị hạn chế khắc nghiệt). Nên lạm quyền dẫn đến lộng quyền là tất yếu.

3- Đó không những là nguồn gốc của tệ tham nhũng mà c̣n là nguồn gốc của nhiều sự suy thoái xă hội, suy thoái nhân cách con người và về lâu dài suy thoái cả dân tộc, v́ sự độc tôn chuyên chế làm nảy sinh nhiều thói cơ hội, nịnh bợ hèn hạ và thói lừa dối lọc lừa, thủ đoạn hoang dă.

4- Muốn chống tham nhũng có hiệu quả phải có cả một chiến lược dân chủ hoá rộng lớn, chiến lược đó bao gồm :

a/ Từng bước cải cách hệ thống chính trị và cách vận hành hệ thống chính trị đó theo hướng dân chủ đa nguyên( hướng phát triển tất yếu của cuộc sống).

b/ Trước mắt phải đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, biểu thị mạnh rơ quyết tâm "thực sự chống tham nhũng". Điều đó cần biểu hiện ở công tác tư tưởng và luật pháp.

c/ Về tư tưởng và luật pháp phải bảo đảm tự do ngôn luận ở báo chí và xuất bản. Về luật pháp phải sửa luật báo chí và xuất bản, phải sửa các điều trong luật h́nh sự, luật khiếu nại tố cáo và pháp lệnh chống tham nhũng. Phải tỏ ra khuyến khích chống tham nhũng, chứ không phải bênh tham nhũng. Phải khuyến khích thông tin chống tham nhũng, thông tin phải luôn nhắc nhở và đưa tin về tham nhũng và chống tham nhũng, tin đó phải nhiều hơn tin trật tự giao thông và tin ma tuư.

d/ Phải có sự chỉnh huấn sâu sắc về thái độ của người và cơ quan nhà nước đối với dân, thực hiện đúng lời Bác Hồ dạy : phải thực sự làm đầy tớ của dân. Về tổ chức, phải sửa đổi toàn bộ các luật bầu cử trong Đảng cũng như trong xă hội, bảo đảm dân và đảng viên được tự do chọn và giới thiệu người mà ḿnh tín nhiệm và tự do bầu để quyết định trao quyền cho người mà ḿnh tin.

***

Nếu ai thực sự có ḷng chống tham nhũng th́ cần phải thực hiện các thể chế dân chủ để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Chỉ có thế mới chống được tham nhũng. Nếu không sẽ chỉ là nói xuông, và bao che tham nhũng./.