Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

 

Trở về trang chính

Vấn đề dân chủ tại Việt Nam

Mục Diễn Đàn, Nhật báo Người Việt, California, thứ sáu 19 tháng 3, 2004

Tạ Văn Tài, Harvard Law School, Tháng 3, 2004


Ít người để ý đến chuyện này là khi các quốc gia bàn luận để thông qua các văn kiện quốc tế căn bản về nhân quyền, họ đã tránh nói đến chữ “dân chủ”, cốt để làm cho các quốc gia theo chế độ độc đảng hay “chế độ xã hội chủ nghĩa” (phần lớn hiểu là các quốc gia cộng sản) có thể sẵn sàng ký vào các văn kiện đó mà không thắc mắc là nếu có hai chữ “dân chủ”,hoặc “dân chủ đa đảng”(multiparty democracy) trong các văn kiện đó thì có kẹt gì cho chế độ độc đảng, vô sản chuyên chính của họ hay không, và do đó có thể ngại ngùng không ký phê chuẩn. Khi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1976 thì đã chấp nhận Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (trong đó có vài điều khoản về nhân quyền) và Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Năm 1981, Việt Nam lại ký chấp nhận hai Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trịvề Các Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa. Tại Hôi Nghị Quốc Tế Vienna về Nhân Quyền tháng 6 năm 1993,Thứ trưởng Ngoại Giao Lê Mai tuyên bố là: “Việt Nam đến Vienna họp với một quyết tâm của nhân dân và nhà nước Việt Nam cam kết đề cao chính nghĩa nhân quyền”. Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập do Chủ Tịch Hồ Chí Minh đọc tại Hà Nội năm 1945 có nói: “Mọi người sinh ra bình đẳng và Tạo Hóa đã ban cho họ những quyền bất khả xâm phạm: Quyền sống, quyền tự do và quyền theo đuổi hạnh phúc”. Tất cả các Hiến Pháp Việt Nam Dân Chủ Công Hòa năm 1946,1959, và Hiến Pháp Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1980 và 1992 đều có một chương dành riêng cho các quyền công dân.


Nhắc đến các văn kiện căn bản trên, chúng tôi muốn nói đến hai điểm:

1. Nhân quyền.

Dù theo chế độ độc đảng, khi thì gọi là “dân chủ xã hội', khi thì là “dân chủ nhân dân”,theo nguyên tắc “dân chủ tập trung”, hay “vô sản chuyên chính” đi nữa, thì nghĩa vụ nhà nước Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền đã có từ suốt năm 1945 cho đến nay, từ những lời tuyên bố long trọng của Hồ Chí Minh qua các văn kiện căn bản quốc nội và quốc tế (trong thực tế,có tôn trọng đến mức nào hay không thì bài tham luận ngắn này chưa bàn tới). Chúng tôi đã có dịp nhắc nhở Việt Nam trong Hội Nghị tháng 2, năm 1993 tại Hawaii giữa hai phái đoàn Việt và Mỹ (mỗi bên gồm có các nghị sĩ, dân biểu, thứ trưởng ngoại giao, giáo sư, học gỉa và cơ quan phi chính phủ): cô Sydney Jones của cơ quan Human Right Watch đã đưa ông Lê Mai cuốn sách chúng tôi viết về Truyền Thống Nhân Quyền Việt Nam (The Vietnamese Tradition of Human Rights) và hỏi “Liệu Việt Nam có tiếp tục truyền thống nhân quyền tốt đẹp thời vua chúa và tôn trọng nhiều hơn các tiêu chuẩn nhân quyền đã cam kết hay không?”. Chúng tôi có nói rỡn với ông Lê Mai, nửa đùa nửa thật: “Ngày xưa, các hoàng đế Việt Nam, tuy theo chế độ quân chủ chuyên chế, đã tôn trọng nhân quyền đến mức khá cao; thì ngày nay, mười mấy 'hoàng đế ' trong Chính Trị Bộ, dù theo chế độ chuyên chính/ độc đảng, vẫn có thể tôn trọng nhân quyền của dân nếu thành thật trong cam kết của mình”. Ông Lê Mai, nhà ngoại giao lịch duyệt, mời cô Sydney Jones sang Việt Nam sau đó để quan sát về tình trạng nhân quyền.

2. Dân chủ.

Dù các văn kiện quốc tế Việt Nam ký kết không nhắc đến chữ dân chủ và luật quốc nội Việt Nam không nói đến dân chủ đa đảng, nhưng Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân sự và Chính Trị (điều 25), và Hiến Pháp Việt Nam (điều 6,7,54) có nói đến một số nguyên tắc căn bản, mầm mống của dân chủ: quyền bầu phiếu trực tiếp và kín trong một cuộc bàu cử trung thực (genuine elections), và quyền ứng cử vào các chức vụ dân cử.

Với sự sụp đổ của vô sản chuyên chính độc đảng tại quê hương của Cộng sản là Liên Sô và tại các nước Ðông Âu, với sự lan tràn của lý tưởng dân chủ trên khắp thế giới (hầu khắp các nước Á Ðông trong 30 năm qua), đã đến lúc người Việt Nam, dù sống trong nước hay sống tại hải ngoại nhưng vẫn thương yêu đồng bào mình tại quê hương cũ, có thể và có quyền bàn đến vấn đề dân chủ tại Việt Nam, để cái mầm mống pháp luật của dân chủ vừa nói trên phát triển mạnh, cho dân tộc Việt Nam tiến thêm một chặng đường, hưởng không nhũng sự tôn trọng nhân quyền mà cả nếp sống dân chủ thực sự nữa. Vả lại, việc bàn luận này cũng hợp thời ngay tại hai nước cộng sản còn lại tại Á Châu là Việt Nam và Trung Quốc. Tại Việt Nam, ngày nay không còn ai nói tới vô sản chuyên chính và đấu tranh giai cấp, nhứt là sau khi ông Ðỗ Mười tuyên bố là có hai lầm lẫn lớn là đánh địa chủ trong cải cách điền địa năm 1953-54 và đánh tư sản miền Nam năm 1979. Về phần Trung Quốc, thì Thủ Tướng Trung Quốc đã tuyên bố tại Ðại Học Harvard vào tháng 12,2003 là sẽ nỗ lực dân chủ hơn (xin xem dưới đây).


A. VIỆT NAM CÓ TRUYỀN THỐNG DÂN CHỦ HAY KHÔNG?

Muốn trả lời câu này thì trước hết phải định nghĩa dân chủ là gì. Dân chủ đích thực, chứ không phải là thứ dân chủ giả hiệu, chỉ có hình thức mà thôi.

Một nền dân chủ chính trị đích thực phải tôn trọng những nguyên tắc căn bản sau đây.

1. Chủ quyền thuộc về toàn dân, tức là phải tôn trọng ý chí của nhân dân trong việc trị nước, nhất là trong việc ủy thác/ chuyển giao quyền bính, nghĩa là phải có các cuộc bầu cử định kỳ và trung thực, để có thể thay đổi lãnh đạo theo ý dân, chứ không để cho một người hay một tầng lớp người ngự trị mãi.

2. Vai trò chính quyền phải có giới hạn, chứ không thể toàn trị hay độc đoán, trong tương quan giữa chính quyền và người dân: tương quan này do một nền pháp trị (rule of law) điều hành, trong đó các quyền tự do căn bản của người dân phải được tôn trọng. Chính quyền không thể toàn trị, xâm nhập vào mọi lãnh vực đời sống tư, hay độc đoán, ban hành luật lệ theo ý riêng chứ không theo ý các đại diện nhân dân. Nếu có thể được, thì ngành tư pháp phải đóng vai người bảo vệ/ che chở cho các quyền tự do của người dân chống lại các quyết định độc đoán của hành pháp.

3. Chính quyền phải giới hạn theo nghĩa thứ hai, tức là trong tổ chức của các cơ quan nhà nước, phải có sự phân quyền giữa ba ngành lập pháp, hành pháp và tu pháp, và sự kiểm soát lẫn nhau và thăng bằng với nhau giũa các quyền này, chứ không thể có tình trạng hành pháp, chẳng hạn, quá mạnh để đi đến chỗ “vừa làm cầu thủ đá bóng, vừa làm trọng tài thổi còi” trong cuộc đấu chính trị.

4. Muốn cho ý người dân được tôn trọng trong việc chuyển giao quyền hành, thay đổi người cầm quyền theo ý dân, thì phải có sự cạnh tranh giữa các cá nhân và các nhóm lãnh đạo xã hội trong diễn tiến chính trị (họ có thể họp lại thành các tổ chức, đoàn thể, hay đảng đối lập nhau), và phải có sự cạnh tranh giũa các quan điểm về quản trị đất nước trong bầu không khí tôn trọng tự do tư tưởng và ngôn luận.

Kinh nghiệm của các nước dân chủ cho biết là khi nỗ lực tiến tới các tiêu chuẩn dân chủ trên, nếu có những nền tảng căn bản tức là những điều kiện xã hội tiên quyết thì có thể làm cho dễ dàng có dân chủ hơn. Thí dụ: Nếu có phát triển kinh tế và giáo dục đại chúng thì người dân có thể không sợ “bể nồi cơm” mỗi khi ngôn luận chống lại khuynh hướng độc tài của chính quyền, và đông đảo người dân sẽ có ý thức và điều kiện tham gia các hoạt động và các tổ chức công cộng trong diễn tiến chính trị dân chủ và các người cầm quyền cũng sẽ tin tưởng là có chỗ rút lui về đời tư mà vẫn duy trì được cuộc sống tốt đẹp, không cần phải tham quyền cố vị và khỏi lo rằng mình mất chức là mất tất cả. Những cuộc nghiên cứu về dân chủ trong hai mươi năm qua cho thấy là nếu lợi tức đầu người trên khoảng 4,500-5,500 Mỹ Kim mỗi năm thì dễ có dân chủ hơn, còn lợi tức đầu người ít hơn số đó, thì khó có dân chủ hơn (tuy cũng có ngoại lệ như Ấn Ðộ, nghèo hơn, nhưng vẫn có dân chủ, hoặc có nước giầu hơn mức đó như Tunisia, lại thiếu dân chủ). Một điều kiện tiên quyết khác để có dân chủ chính trị là phải có sự đồng thuận của quốc dân về một số những điều căn bản trong đời sống của dân tộc- thì mới có sự tương nhượng và thỏa hiệp và do đó, sự ổn định chính trị, để mà sinh hoạt dân chủ (thí dụ: phải có mức độ tối thiểu đoàn kết hay sống chung giữa các sắc dân họp thành dân tộc, chứ không thể có nạn ly khai, nhứt là bằng võ lực, làm tan rã đất nước; phải có một tầng lớp cán bộ hành chánh trung lập lo việc công, chứ không phục vụ riêng phe phái nào), chứ nếu có những sự chia rẽ trầm trọng trong xã hội thì có thể đi đến chỗ đổ vỡ vì bạo động, hết còn dân chủ; nhưng chỉ cần sự đồng thuận về những điều căn bản thôi, vì ép người dân theo một quan điểm xây dựng đất nước duy nhất, thì không còn là dân chủ nữa.

Xét theo các tiêu chuẩn dân chủ nói trên, thì có thể nói Việt Nam thời quân chủ (trước thời Pháp thuộc) chưa có một truyền thống thực sự dân chủ, vì không cho phép người dân có thể họp lại thành các nhóm đối lập để cạnh tranh trong một diễn tiến bầu cử để thay đổi nhà cầm quyền cao nhất. Tuy rằng dưới nhà vua, các tầng lớp sĩ phu được quyền cạnh tranh qua thi cử để ra làm quan, trở thành những tầng lớp thống trị, nhưng vẫn là dưới quyền chuyên độc của nhà cầm quyền tối cao là nhà vua. Việt Nam thời quân chủ đã tiến tới một trình độ khá cao trong nền pháp trị và đã tôn trọng rất nhiều nhân quyền của người dân (như chúng tôi đã có dịp trình bày trong cuốn sách Truyền Thống Nhân Quyền Việt Nam-The Vietnamese Tradition of Human Rights-, xuất bản tại University of California-Berkeley, có trong thư viện các trường đại học, kể cả Ðại Học Hà Nội). Nhưng Việt Nam thời cổ vẫn chưa có dân chủ thực sự tới mức độ cao. Hội Ðồng Kỳ Mục trong các xã được chọn ra theo lối suy cử và đề cử, rồi có nhà vua phê chuẩn, chứ không phải là do một cuộc bầu cử. Hội Nghị Diên Hồng cũng là do nhà vua triệu tập để tham khảo ý kiến dân về một việc là vấn đề chống ngoại xâm, không phải là một định chế quốc hội thường trực do dân bàu ra để lo việc lập pháp.


B. LÀM THẾ NÀO TIẾN TỚI DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM?

Có người đặt câu hỏi này để ám chỉ Việt Nam thời cận đại và hiện đại chưa có dân chủ hoàn toàn và còn phải cải tiến nhiều nữa mới có dân chủ thực sự.

Xét lại chế độ chính trị của Việt Nam thời cận đại, thì có thể nói Miền Nam Việt Nam từ 1954 cho đến 1975 cũng chưa có một thể chế dân chủ thực sự hay hoàn hảo, và mầm mống dân chủ có vẻ được khuyến khích nhưng có khi bị chặt đứt, vì ông Ngô Ðình Diệm thiết lập chế độ cộng hòa nhưng lại sắp xếp cho mình thắng với số phiếu 95% gì đó trong cuộc bỏ phiếu truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại, mà không có ông Bảo Ðại trong nước để cùng tranh cử, theo đúng nghĩa một cuộc bàu cử dân chủ, có tự do cạnh tranh. Năm 1967, có cuộc bàu cử tương đối tự do, thì bốn năm sau, 1971, lại có cuộc độc diễn tuyển cử của ông Nguyễn Văn Thiệu, vì chính quyền ông Thiệu dùng mọi cách để gạt các liên danh tranh cử khác ra, khiến họ bỏ cuộc.

Chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay cũng chưa cho phép một sự canh tranh hoàn toàn trong việc bàu cử nhà cầm quyền tối cao. Có một mức độ dân chủ nào đó trong việc bàu cử Hội Ðồng Nhân Dân Xã,Tinh, và Quốc Hội, vì trong những cuộc bàu cử gần đây, số ứng cử viên cạnh tranh trong một đơn vị bầu cử đã nhiều hơn số ghế trong đơn vị ấy. Nhưng sự cạnh tranh giữa các ứng cử viên còn rất giới hạn. Vì phân tích kỹ, thì ta thấy rằng, chẳng hạn, nhiều đơn vị có 3 ghế nghị viên hay dân biểu, thì chỉ có 4 hay 5 người được phép ra tranh cử mà thôi, nghĩa là các người trúng cử như đã được sắp xếp bởi Ðảng và Mặt Trận Tổ Quốc cho thắng cử, mấy người thất cử thì số rất ít và chỉ là “lót đường” hay là bày hàng cho đẹp cuộc bàu cử mà thôi. Việc Ðảng, qua Mặt Trận Tổ Quốc, sắp xếp cho kết quả cuộc bàu cử đúng theo ý chỉ huy của mình, chứ không theo ý dân, thì ta có thể thấy ngay trong việc chấp thuận cho ứng viên ra ứng cử: Nếu ứng cử viên không được Mặt Trận Tổ Quốc (do Ðảng kiểm soát) đề cử, thì không ra ứng cử và trúng cử được. Việc tuyển người vô các cấp lãnh đạo cao nhất, như Chủ tịch Quốc Hội, Chủ tịch Nước, Chánh Án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao, Thủ Tướng, thì do Quốc Hội bàu, nhưng trong cuộc bàu cử đó, đã có sự sắp xếp trong nội bộ các đảng viên quan trọng của Ðảng (gọi là “cuộc bàu thử”), chứ không do một cuộc bàu cử bởi người dân và theo ý người dân. Ðảng chỉ huy hết mọi cuộc bàu cử, từ ở cấp tỉnh cho đến cấp quốc gia, Ðảng gạt bỏ sự cạnh tranh thực sự của các người đối lập, và ngay Hiến Pháp cũng ghi rõ Ðảng độc quyền lãnh đạo.

Về cách làm thế nào để tiến tới dân chủ nhiều hơn ở Việt Nam, thì chúng tôi thiết nghĩ trước hết phải tạo những điều kiện tiên quyết đã nói trên cho việc phát huy nhân quyền và dân chủ, tức là đặt nền tảng căn bản. Ý kiến này, chúng tôi đã phát biểu vào năm 1990, trong một bài thuyết trình trong Tòa Bạch Ốc khi Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia Mỹ hỏi ý kiến một số Việt Kiều tại Mỹ về vấn đề bỏ cấm vận và bang giao với Việt Nam; trong bài báo dài về “Vai trò trí thức chuyên viên Việt Nam hải ngoại” đăng trên nhiều báo của người Việt Nam tại Mỹ; cũng như vào năm 1993, trong Hội Nghị Hawaii giữa các nghị sĩ, dân biểu, giáo sư, học giả và thứ trưởng ngoại giao của Hao Kỳ và của Việt Nam, là: Mỹ nên bỏ cấm vận, cho nhiều nhà đầu tư và thương mại vô Việt Nam, đẩy mạnh phát triển kinh tế, nhứt là khu vực tư, làm cho người dân Việt Nam đỡ khổ, được tự chủ và độc lập khỏi chính quyền về kế sinh nhai và lợi tức, không lệ thuộc vào chế độ hộ khẩu tức là phải xin nhà nước cơm gạo, do đó bớt sợ chính quyền, dám đòi tự do ngôn luận và các tự do căn bản khác; việc mở cửa ra bên ngoài cũng khiến sự hiểu biết của người Việt Nam về các chế độ và xã hội cởi mở khác cũng như các trào lưu dân chủ trên thế giới và khiến họ cũng muốn được hưởng tự do và dân chủ như vậy- tất cả những điều đó là xây dựng nền tảng cho dân chủ.

Các diễn tiến này đã và đang xảy ra tại Việt Nam. Khách quan mà nói, Chế độ Cộng Hòa Xã Hội Việt Nam hiện nay, vô hình trung, dù muốn hay không, và có phần là chẳng đặng đừng, cũng đã tạo một số điều kiện xã hội tiên quyết thuận lợi cho việc tiến tới dân chủ, như đẩy mạnh kinh tế thị trường cho người dân có mực sống cao hơn, phát triển giáo dục đại chúng và đại học cho dân trí khá hơn, tạo sự đồng thuận quốc gia về một số định hướng căn bản cho quốc gia như kinh tế thị trường và đổi mới để có ổn định xã hội, tức là những điều kiện căn bản tiên quyết của dân chủ, và cũng đã tôn trọng sự cạnh tranh dân chủ trong nội bộ đảng viên trong các kỳ bàu cử các đảng bộ từ dưới cấp cơ sở đi lên tới trung ương tức Ðại Hội Ðảng (nhưng đây là dân chủ giũa các đảng viên, chứ chưa phải là dân chủ trong toàn dân).

Xét cho cùng, việc có đẩy mạnh được hơn nữa dân chủ tại Việt Nam hay không, tức là đòi hỏi chế độ tôn trọng nhiều hơn các tiêu chuẩn hay nguyên tắc dân chủ đã nói trên, thì tùy nhiều nhất vào sự tranh đấu của đồng bào Việt Nam ở trong nước, chứ còn cộng đồng người Việt hải ngoại chỉ có thể trợ lực về mặt tinh thần, hỗ trợ qua truyền thông và vận động áp lực quốc tế.

Phải công nhận là các nhà vận động cho dân chủ ở trong nước đã có công và can đảm tranh đấu cho dân chủ, từ phong trào báo chí như báo “Truyền Thống Kháng Chiến”, đến văn nghệ đối kháng, rồi đến áp lực để chính quyền có thái độ “cởi trói” như ông Bí Thư Nguyễn Văn Linh đề ra.

Nếu toàn dân (chứ không phải chỉ đảng viên mà thôi) cứ tiến hành càng ngày càng mạnh những đòi hỏi thi hành các nguyên tắc dân chủ, thì con đường dân chủ hóa tại Việt Nam sẽ là một cuộc tiến bộ bất khả phản hồi, theo trào lưu chung của nhân loại. Trong trào lưu chung của nhân loại này, có cả nước cộng sản lớn nhất thế giới, là Trung Quốc, cũng là đàn anh và nhiều khi cũng là khuôn mẫu cho Ðảng Cộng Sản Việt Nam (Việt Nam đã từng coi chừng xem Trung Quốc làm gì, thì cũng phỏng theo: Trung Quốc mở cửa [open door] thì Việt Nam đổi mới [ renovation]; Trung Quốc tu chính luật chấp nhận thành phần doanh nhân vô Ðảng Cộng Sản, thì Việt Nam cũng bàn về điều đó). Nhân cuộc thăm viếng chính thức nước Mỹ,và sau khi gặp Tổng Thống Mỹ bàn về việc bành trướng thương mại và đầu tư giữa hai nước trong khung khổ Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế, thì Thủ Tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo (Wen Jiabao) đã đọc diễn văn trước một cử tọa đông đảo tại Ðại Học Harvard ngày 10 tháng 12,2003, tuyên bố là Trung Quốc cam kết theo đuổi mục tiêu cuối cùng là Dân Chủ, vì rằng sự kính trọng quyền tự do của dân chúng theo đuổi hạnh phúc đã đưa tới thành quả kinh tế lớn lao của Trung Quốc, và ông nói sẽ dần dần thực hiện dân chủ toàn diện (full democracy), điều này cần nhiều năm vì cần phải nâng cao dân trí qua giáo dục. Ông cũng nói Trung Quốc đang nỗ lực làm việc để cải tiến thêm thành tích nhân quyền của họ. Thế nào các người sáng suốt, nhứt là thánh phần trẻ, trong Ðảng Cộng Sản và Nhà Nước Việt Nam sẽ phải thấy là một nước lớn như Trung Quốc cũng phải nhận ra bài học so sánh Brazil vã Hoa Kỳ: Brazil cũng là một quốc gia lớn và nhiều tài nguyên như Hoa Kỳ, nhưng vì chế độ độc tài quân phiệt nên đã không phát huy được sức làm việc và khả năng sáng tạo để phát triển kinh tế như nền dân chủ hơn 225 năm của Mỹ.

Nhưng có điều là người dân Việt Nam cũng nên kiên trì trong việc đấu tranh thực hiện dân chủ. Nền dân chủ lâu đời của Mỹ cũng đã phải trải qua hàng trăm năm mới dần dần thực hiện được dân chủ, mà cũng còn khuyết điểm. Tổng Thống Lincoln ra Tuyên Ngôn Giải Phóng Nô Lệ trong thời Nộ Chiến Mỹ thế kỷ 19, mà cả hơn trăm năm sau, người da đen vẫn phải tranh đấu trong Phong Trào Dân Quyền của thập niên 1960 (mà lãnh tụ nổi danh là M.L. King), thì mới có các luật về dân quyền và bàu cử (civil rights acts,voting rights acts) để người da đen được tham gia bàu cử (và ứng cử) mà không bị chèn ép. Nước Mỹ cũng có cái nạn những người đang cầm quyền thì có khuynh hướng bám chặt lấy chính quyền, từ chối không muốn làm ra các luật lệ bàu cử công bằng hơn để cho các người khác có cơ hội ra tranh cử và trúng cử. Phải gần 30 năm trời tranh đấu từ 1971 đến năm 2002 thì các nhà cải cách luật pháp mới thuyết phục được đủ số phiếu trong Quốc Hội Mỹ để thông qua được Luật Cải Tổ Tranh Cử của Lưỡng Ðảng (Bipartisan Campaign Reform Act), để hạn chế bớt cái nạn các thế lực tài chánh (các công ty lớn, các nghiệp đoàn, các hiệp hội, các người giầu có) dùng biện pháp “cả vú lấp miệng em “, dùng tiền bạc để làm tràn ngập các phương tiện thông tin để ủng hộ các ứng cử viên thiên về các thế lực giàu có đó. Thế mà cũng có các thế lực đó khởi kiện, đòi bỏ các hạn chế đó, và Tối Cao Pháp Viện Mỹ, ngày 10 tháng 12,2003, đã phải tuyên bố là các hạn chế việc sử dụng quá đáng quyền tự do ngôn luận đó (dùng tiền bạc để “ cả vú lấp miệng em”) là cần thiết để bảo vệ nền dân chủ (trong bản án này, phe đa số 5 thẩm phán đã thắng phe thiểu số 4 thẩm phán, trong đó có Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện Mỹ là Rehnquist, người mà ngày xưa lúc còn trẻ đã đứng trước phòng phiếu để vặn hỏi người da đen xem họ có biết chữ hay trả lời được một số câu hỏi thì mới cho vô phòng phiếu!!).

Vậy muốn có dân chủ, phải “trường kỳ kháng chiến”, nhứt là trong trường hợp những người cầm quyền không những có tiền “cả vú lấp miệng em”, mà còn có thể “lấy thịt đè người”.

 

Trở về trang chính