Tại sao ta biết những
điều ta biết, và việc thực thi dân chủ
Mục đích của bài này
trước hết t́m xem tại sao chúng ta biết
những điều chúng ta biết và sau đó t́m xem
ảnh hưởng của câu trả lời câu hỏi này
với việc thực thi dân chủ.
Phần đầu
của bài bàn về câu hỏi tại sao ta biết
những điều ta biết. Phần này sẽ bàn
đến những lí do để có thể biết
một điều nào đó - điều biết này có
thể do tự học hỏi hay do được giáo
dục hay do môi trường xă hội - thật hay không thật,
và về những lí do làm cho việc biết của chúng ta
bị ảnh hưởng, trở thành không chính xác.
Phần này dựa vào ư của Richard Dawkins.
Phần tiếp
theo bàn về ảnh hưởng của câu trả lời
câu hỏi trên với việc thực thi dân chủ.
Phần này bàn về ảnh hưởng của câu trả
lời đó trong việc thảo luận, một
phương cách để thực thi dân chủ, và
đối với việc loại bỏ những thành
kiến nguy hại làm thương tổn đến
niềm tin, một điều kiện cần cho việc
thảo luận.
1. Tại sao
ta biết những điều ta biết
Có bao giờ
chúng ta tự đặt câu hỏi tại sao ta lại
biết những điều ta đang biết ? Thí dụ
tại sao chúng ta biết những v́ tinh tú trông chỉ
nhỏ như những đầu kim đan trên bầu
trời, thực sự lại là những khối lửa
tṛn khổng lồ y như mặt trời và ở rất
xa chúng ta ? Và làm thế nào chúng ta lại biết trái
đất là một quả cầu tṛn nhỏ hơn và quay
quanh một trong những vị tinh tú ấy, đó là
mặt trời ?
Câu trả lời
cho những câu hỏi ấy là : v́ đă được
chứng minh như vậy, v́ có bằng chứng là như
vậy. Có khi bằng chứng là việc chúng ta nh́n thấy
(hoặc nghe thấy, sờ thấy, ngửi thấy, và vân
vân) điều đó thực sự như vậy. Các phi
hành gia đă đi ra ngoài trái đất khá xa và nh́n thấy
tận mắt trái đất tṛn. Và đôi khi chúng ta
cũng phải dùng cái ǵ đó để trợ giúp cho
mắt của chúng ta một chút. Sao hôm nh́n bằng mắt
thường trông giống một v́ sao sáng lấp lánh,
nhưng nh́n với viễn vọng kính th́ điểm sáng
ấy là một trái banh tuyệt đẹp. Đó là hành
tinh mà ta gọi là Venus. Nếu chúng ta biết
được một điều ǵ do chúng ta trực
tiếp nh́n (hoặc nghe, sờ, và vân vân) th́ chúng ta nói là
quan sát thấy.
Thường
thường không phải chỉ một quan sát là có ngay
được một bằng chứng, mà phải
nhiều quan sát mới có được một bằng
chứng. Nếu có một vụ giết người th́
thường không có ai (trừ sát nhân và nạn nhân) quan sát
thấy sự kiện xảy ra như thế nào. Cảnh
sát có thể sẽ thực hiện nhiều loại quan sát
khác nhau để t́m ra thủ phạm. Nếu dấu tay
của một người nào đó giống dấu tay trên
cán dao th́ đó là một bằng chứng ông ta đă dùng con
dao này. Đó chưa phải là bằng chứng quyết
định ông ta đă sát nhân. Nhưng kết hợp
với các bằng chứng khác th́ có lẽ đúng là ông ta
đă sát nhân. Một thám tử có thể nghĩ ra một
số quan sát và thấy rằng những quan sát này ăn
khớp và phù hợp hoàn toàn với nhau như người
này và người kia đă thực hiện việc sát nhân.
Các nhà khoa học -
muốn nói là các chuyên viên t́m sự thật trên thế
giới xung quanh chúng ta và trong vũ trụ - thường
làm việc như các nhà thám tử. Họ cố gắng
đoán xem cái này hợp với cái kia như thế nào
(họ gọi là một giả định hay một
giả thuyết). Và họ tự nói : nếu cái này đúng
th́ chúng ta phải nh́n thấy như thế này như
thế kia. Đó là điều kiện đầu tiên. Thí
dụ chúng ta giả sử rằng trái đất tṛn, chúng
ta có thể tiên đoán là một người đi theo cùng
một hướng nhất định trên trái đất
sẽ đi đến vị trí khởi hành ban
đầu. Nếu một bác sĩ nói rằng một
người nào đó bị lên sởi th́ không phải ông ta
chỉ cần coi người đó một lần là
biết người đó bị lên sởi. Ông ta coi
người đó và đặt giả thuyết : có lẽ
người này bị lên sởi. Và ông ta tự nghĩ :
nếu người này lên sởi th́ phải nh́n thấy cái
này cái kia và ông ta bắt đầu quan sát kĩ
lưỡng những giả định ấy : lấy
mắt quan sát xem có các vết đỏ ở trên da không,
lấy tay sờ xem trán có nóng sốt không và lấy tai nghe
xem phổi có thở kḥ khè như những người
bị lên sởi không. Sau đó ông ta mới quyết
định và nói : "Định bệnh của tôi là
đứa bé này bị lên sởi". Đôi khi bác sĩ
c̣n cần những khám nghiệm khác, thí dụ thử máu
hay chụp h́nh quang tuyến X. Nhờ đó ông ta có thêm
nhiều quan sát hơn bên cạnh những quan sát ông đă
thấy bằng mắt, tay và tai.
Cách mà các nhà khoa
học sử dụng các bằng chứng để
biết về thế giới c̣n thông minh hơn và phức
tạp hơn việc tôi có thể giải thích ngắn
gọn trong bài này. Nhưng bây giờ tôi không muốn nói thêm
về các bằng chứng, luôn luôn là những lí do xác
đáng để chúng ta có thể tin một cái ǵ đó, mà
tôi muốn cảnh giác về ba lí do sai lầm đă làm cho
chúng ta tin. Đó là truyền thống, uy quyền và mặc
khải (revelation).
Tin v́ lư do truyền thống
Tôi bắt
đầu với lí do truyền thống. Một vài tháng
trước đây tôi đă coi trên TiVi một cuộc
thảo luận của khoảng 50 em. Các em này
được mời v́ các em được giáo dục
theo các tôn giáo khác nhau. Một số em được giáo
dục theo Thiên Chúa giáo, các em khác theo Do Thái giáo, Hồi giáo
hoặc Ấn Độ giáo. Người đàn ông
điều khiển chương tŕnh cầm ống nói
đi ngang qua tất cả các em và hỏi các em về
những điều các em tin. Các câu trả lời của
các em cho thấy đúng như điều tôi muốn ám
chỉ về truyền thống. Các em lập lại theo
cùng một điệu những ǵ bố mẹ và ông bà
đă nói là thật dù những cái ấy không dựa vào
bằng chứng nào. Các em nói : "Chúng tôi, tín đồ
Ấn Độ giáo, tin điều này và điều
kia" hay "Chúng tôi, những người Hồi giáo, tin
như thế này thế nọ" và "Chúng tôi,
những người Ki-tô giáo, tin điều ấy không
giống như vậy".
Các em tin tất
cả khác nhau, như vậy các em không thể đều có
lí cả. Người điều khiển chương
tŕnh không tỏ ra kinh ngạc chút nào và hoàn toàn không thấy
khó khăn để cho các em trao đổi với nhau
về những khác biệt ấy. Nhưng với tôi th́
khác. Tôi muốn biết về nguồn gốc của
những tin tưởng ấy. Và đó là truyền
thống. Truyền thống bao gồm việc cha mẹ
trao truyền những điều ḿnh tin tưởng cho con
cái. Rồi đến lần chúng, chúng lại trao
truyền cho con cái chúng và vân vân. Hoặc qua những sách
vở mà người ta đă lưu truyền cho nhau hàng
nhiều thế kỉ. Những tin tưởng truyền
thống thường không dựa vào cơ sở nào. Có
lẽ chúng được người nào đó nghĩ ra
vào một thời điểm nào đó như các truyện
về Thor và Zeus. Nhưng sau khi chúng đă trải qua
một vài thế kỉ th́ chúng bắt đầu trở
thành đặc biệt chỉ v́ chúng cổ xưa. Con
người thường tin nhiều điều với lí
do đơn giản là người ta đă tin những
điều đó nhiều thế kỉ rồi. Đó là
truyền thống.
Một vấn
đề liên quan đến truyền thống là một
câu truyện vào lúc nghĩ ra, có thể thật hoặc không
thật, sẽ trở thành không c̣n khác biệt nữa
nếu nó càng có gốc gác xa xưa. Mà trong thực tế
một câu truyện không thật sẽ không thể trở
thành thật v́ nó được lưu truyền từ
thế hệ này qua thế hệ khác.
Ở Âu châu
nhiều người cho ḿnh là tín đồ Thiên Chúa giáo.
Nhưng trong khối Thiên Chúa giáo này lại có nhiều phái.
Chúng ta có Thiên Chúa giáo La Mă, Tin Lành Calvin, Tin Lành Luther, Anh giáo,
Chính Thống giáo Nga và c̣n nhiều trào lưu khác nữa. Và
trong những trào lưu này người ta cũng tin hơi
khác nhau. Do Thái giáo và Hồi giáo lại c̣n khác nữa và trong
các tôn giáo này cũng có những khuynh hướng khác nhau.
Những điều người ta tin không khác nhau bao nhiêu
nhưng người ta đánh nhau sống chết v́
những khác biệt nhỏ nhoi này. Có lẽ người ta
nghĩ người ta có những lí do chính đáng - bằng
chứng - để tin những điều ấy.
Nhưng trong thực tế những niềm tin của họ
khác biệt nhau chỉ v́ đặt cơ sở trên
những truyền thống khác biệt.
Bây giờ chúng ta
thử xem một điểm của truyền thống
ấy. Những người Công giáo La Mă tin là Đức Bà
Maria, mẹ của Chúa Giê-su, thật đặc biệt
đến nỗi không bị chết mà lại lên trời
cả hồn lẫn xác. Các truyền thống Thiên Chúa giáo
khác không đồng ư điểm này. Họ nói Đức
Bà Maria đă chết như tất cả những
người khác. Các tôn giáo khác không quan tâm đến Bà và
không gọi Bà là "Nữ Vương Trên Trời"
như những người Công giáo. Truyền thống nói
rằng Đức Bà Maria cả hồn và xác lên trời có
chưa lâu lắm. Kinh thánh không nói ǵ về thời
điểm hoặc cách thức Đức Bà đă
chết. Người đàn bà khốn khó ấy rất ít
được nhắc đến trong kinh thánh. Niềm tin
xác của Đức Bà lên trời mới chỉ bắt
đầu hiện hữu vào khoảng sáu thế kỉ sau
thời của Chúa Giê-su. Đầu tiên đó chỉ là
một truyện tưởng tượng thông
thường cũng giống như truyện tưởng tượng
về công chúa Bạch Tuyết. Nhưng theo ḍng thời gian
của nhiều thế kỉ th́ câu truyện này trở
thành truyền thống và người ta bắt đầu
tin là thật v́ nó đă được lưu truyền qua
nhiều thế hệ. Truyền thống càng lâu
đời th́ càng nhiều người tin truyền
thống ấy là thật. Cuối cùng truyện ấy
mới chỉ được người Công giáo công
nhận chính thức thành một tín điều gần
đây thôi, vào năm 1950. Nhưng câu truyện vào năm 1950
cũng không thật hơn câu truyện lúc mới
được nghĩ ra, 6 thế kỉ sau ngày Đức
Bà Maria mất.
Vào cuối bài này
tôi sẽ trở lại khái niệm truyền thống và
bàn dưới khía cạnh khác. Nhưng trước hết
tôi c̣n phải bàn về hai lí do sai lầm khác đă
khiến chúng ta tin. Đó là uy quyền và mặc khải.
Tin v́ lư do uy quyền
Tin dựa vào uy
quyền có nghĩa là tin một điều ǵ đó v́
một nhân vật quan trọng đă nói chúng ta phải tin.
Trong giáo hội Công giáo La Mă, giáo hoàng là người quan
trọng nhất. Người ta tin ngài có lí chỉ bởi
v́ ngài là giáo hoàng. Trong một chi nhánh của Hồi giáo th́
những người đàn ông già có bộ râu rậm
rạp được gọi là ayatollah là những
người quan trọng. Nhiều tín đồ Hồi giáo
ở trên toàn thế giới sẵn sàng giết
người chỉ v́ các vị ayatollah ở một
nước xa xôi nào đó đă nói họ phải làm
điều đó.
Khi tôi nói những
người Công giáo La Mă chỉ mới được nghe
vào năm 1950 là họ phải tin xác của Đức Bà
Maria đă lên trời, tôi muốn nói giáo hoàng đă nói vào
năm 1950 là người ta phải tin điều ấy.
Chấm hết. Giáo hoàng đă nói rằng điều đó
đúng tức là điều đó phải đúng. Có
lẽ trong cuộc đời của giáo hoàng, ngài đă nói
một số điều đúng mà cũng có một số
điều không đúng. Không có những lí do xác đáng nào
để biện hộ cho việc tại sao chúng ta
phải tin tất cả những ǵ giáo hoàng đă nói
chỉ v́ ngài là giáo hoàng đang khi chúng ta không cần
phải tin những phát biểu của tất cả
những người khác. Giáo hoàng hiện tại đă ra
chỉ thị cho các tín hữu không được hạn
chế sinh đẻ theo các phương pháp nhân tạo.
Nhưng nếu mọi người đều tuân phục
ngài một cách nô lệ như ngài muốn th́ sẽ xảy
ra không biết bao nhiêu nạn đói kém khủng khiếp,
dịch hạch và chiến tranh là hậu quả của
nạn nhân măn.
Dĩ nhiên trong khoa
học chúng ta thường không thể chính mắt nh́n
thấy điều ǵ đó đúng và chúng ta phải tin vào
lời một người nào đó. Thí dụ tôi chưa
bao giờ chính mắt nh́n thấy bằng chứng tốc
độ vận hành của ánh sáng là 300.000 cây số
một giây, nhưng tôi tin điều đó đúng v́ tôi
đă đọc thấy trong sách. Như vậy, h́nh như
tôi đă chấp nhận một điều ǵ đó
dựa vào uy quyền của người đă viết
quyển sách ấy. Nhưng trên thực tế tôi có
nhiều cơ sở để chấp nhận
điều đó đúng v́ người viết sách đă
nh́n thấy bằng chứng và v́ mọi người
muốn nh́n bằng chứng này đều được
tự do để tham khảo kho tàng bằng chứng
ấy. Điều đó làm cho việc tin này thành đáng
tin. Nhưng ngay cả các linh mục cũng không cho thấy
là có một bằng chứng nào đó để xác
quyết chuyện Đức Bà Maria đă lên trời
cả hồn lẫn xác.
Tin v́ lư do mặc khải
Lí do sai lầm
thứ ba để chúng ta tin một điều ǵ, đó
là mặc khải. Nếu chúng ta hỏi giáo hoàng lúc ấy
vào năm 1950 là làm thế nào ngài biết Đức Bà lên
trời cả xác th́ có lẽ ngài sẽ nói là ngài đă
được mặc khải điều đó. Là ngài
đă ở trong pḥng một ḿnh và cầu nguyện
để xin soi sáng. Là ngài đă tự suy nghiệm kĩ
lưỡng và dần dà tự thâm tâm ngài càng ngày càng
thấy chắc chắn về sự việc này. Khi các
người theo một tôn giáo nào đó có cảm giác
một điều ǵ đó đúng, dù không có một
bằng chứng nào th́ người ta gọi cảm giác
ấy là mặc khải. Không phải chỉ có các giáo hoàng
mới xác quyết các ngài nhận được mặc
khải, mà nhiều người theo đạo khác cũng
xác quyết họ được mặc khải. Đó là
một trong những lí do quan trọng nhất để
người ta tin những sự việc mà người ta
tin. Nhưng đó có phải là lí do đúng không ?
Già sử tôi nói
với bạn rằng con chó Vện của bạn đă
chết. Có lẽ bạn sẽ rất buồn và hỏi :
"Anh có biết chắc chắn không ? Làm sao anh biết
? Và việc đó xảy ra như thế nào?". Và
giả sử tôi lại nói : "Sự thực tôi không
biết chắc chắn con chó Vện chết. Tôi không có
bằng chứng nhưng tôi có linh cảm nó chết". Có
lẽ bạn sẽ hơi giận tôi v́ tôi đă làm cho
bạn hoảng sợ bởi v́ bạn biết linh cảm
tự nó không phải là lí do xác đáng để tin con chó
chết. Bạn muốn thấy hoặc nghe
được bằng chứng. Chúng ta, ai cũng có
lần có linh cảm về một cái ǵ đó, đôi khi
linh cảm đó đúng với thực tế nhưng
đôi khi sai. Chúng ta có thể nói trong mọi trường
hợp, rằng mọi người có thể có những
linh cảm trái nghịch nhau. Nhưng làm sao chúng ta có thể
quy định ai có linh cảm đúng ? Cách độc nhất
để chúng ta có thể biết chắc chắn con chó có
chết không, là chúng ta nh́n thấy nó chết hoặc nghe
thấy tim nó không c̣n đập nữa hoặc nghe ai đă
thấy bằng chứng hoặc nghe nó chết.
Đôi khi
người ta nói rằng chúng ta phải tin những ǵ chúng
ta cảm nhận ở sâu trong nội tâm của chúng ta v́
nếu làm khác chúng ta sẽ không bao giờ có thể tin
tưởng vào những ư tưởng như "vợ tôi
yêu tôi". Nhưng đó không phải lí do xác đáng. Có
thể có khá nhiều bằng chứng về việc
một người nào đó yêu chúng ta. Nếu chúng ta ở
bên một người nào đó yêu chúng ta, chúng ta sẽ
thấy vô số việc nho nhỏ, các loại bằng
chứng nho nhỏ. Đó chẳng phải chỉ là
cảm nhận trong nội tâm như cảm nhận mà
vị linh mục gọi là mặc khải. Ở thế
giới bên ngoài có những sự việc xác định
cảm nhận nội tâm. Thí dụ một ánh mắt
hoặc một giọng nói nhẹ nhàng, những cử
chỉ dịu dàng mà người nào đó dành cho chúng ta.
Đó là tất cả những mẩu bằng chứng
thật.
Trong cuộc
sống vợ chồng, khi có một người có một
cảm nhận thật mạnh là người kia yêu
người khác hơn ḿnh và họ tin thật như
vậy dù không có bằng chứng th́ có lẽ họ sẽ
đi đến một kết cục sai lầm. Có
những người tin tưởng rằng một tài
tử nổi tiếng yêu họ trong khi tài tử này
chưa bao giờ gặp họ. Những người tin
tưởng theo kiểu này là những người có tinh
thần bệnh hoạn. Những điều mà chúng ta
cảm nhận phải được xác quyết bằng
những bằng chứng nếu không phải như
vậy th́ chúng ta không thể tin được.
Những sự
việc chúng ta cảm nhận thấy cũng có giá trị
trong khoa học, nhưng chỉ để giúp chúng ta có ư
tưởng về sự việc ấy và phải
được kiểm chứng bằng việc đi t́m
bằng chứng. Một nhà khoa học có thể có một
nghi ngờ, một ư tưởng do cảm nhận. Tự
nó chưa phải là lí do xác đáng để tin mà cảm
nhận ấy chỉ có thể là một lí do xác đáng
để dành thời giờ cho một thí nghiệm nào
đó hoặc để theo một hướng nào đó mà
t́m ra những bằng chứng. Những nhà điều tra
thường sử dụng cảm nhận của họ
khi họ đi t́m ư tưởng. Nhưng những cảm
nhận ấy không có giá trị cho tới khi chúng
được xác quyết bằng những bằng
chứng.
Tôi đă hứa tôi
sẽ c̣n trở lại bàn về khái niệm truyền
thống và tôi sẽ bàn về hiện tượng này
dưới một cách tiếp cận khác. Đặc
biệt tôi muốn cố gắng giải thích tại sao
truyền thống lại quan trọng như vậy
với chúng ta. Với tất cả thú vật th́ chúng (do
một tiến tŕnh mà ta gọi là tiến hoá) chỉ có
thể sống c̣n trong những hoàn cảnh mà đồng
loại của chúng sống. Sư tử sống ở bên
nhau để có thể tồn tại trên những khu
vực ở Phi châu. Những con tôm hùm sống ở sông có
thể sống sót ở nước ngọt đang khi
những con tôm hùm sống ở biển chỉ có thể
sống sót ở nước mặn. Con người
cũng là những con vật và chúng ta ở bên nhau
để chúng ta có thể tồn tại được
trong một môi trường với những người
khác. Chúng ta, con người, không cần phải dự
trữ thức ăn cho riêng ḿnh bằng cách đi săn
như những con sư tử hay con tôm. B́nh thường
chúng ta mua thức ăn ở những người khác và
những người này lại đi mua của những
người khác nữa. Chúng ta "bơi" trong một
"biển người". Và giống như cá có mang
để có thể sống dưới nước, con
người cần có bộ óc để biết cách liên
hệ với những người khác. Như biển có
đầy nước muối, biển người
cũng có nhiều việc khó khăn mà chúng ta phải
học. Thí dụ như ngôn ngữ.
Bạn nói tiếng
Anh c̣n bạn gái của bạn nói tiếng Đức.
Cả hai bạn đều nói thứ ngôn ngữ thích
hợp với biển người mà các bạn bơi
lội. Ngôn ngữ được trao truyền như
một truyền thống. Không có cách nào khác hơn. Ở
nước Anh, con chó Vện là a dog. Ở nước
Đức, nó là ein Hund. Không từ nào trong hai từ này
đúng hơn hay thật hơn từ kia. Cả hai từ
đều được trao truyền từ bố mẹ
cho con một cách thật đơn giản. Và để lo
cho con cái có thể bơi lội thoải mái trong biển
người vây quanh chúng, chúng phải học ngôn ngữ
của đất nước chúng và bên cạnh đó c̣n
phải học nhiều loại sự việc khác nhau
về dân tộc chúng. Điều này có nghĩa là chúng, như
tờ giấy thấm, phải hút một số
lượng lớn các thông tin truyền thống. (Chúng ta
nhớ là thông tin truyền thống là những sự
việc được trao truyền từ bố mẹ
cho con cái và rồi lại được trao truyền
từ con cái cho con chúng và cứ như vậy tiếp
nối). Bộ óc của trẻ em rất say mê những
thông tin truyền thống được trao truyền
nhưng chúng ta không thể mong chờ một đứa
trẻ phân biệt được thông tin truyền
thống được trao truyền tốt và hữu
dụng như các từ của ngôn ngữ với thông tin
truyền thống xấu và vô nghĩa như tin phù thủy,
quỷ và các trinh nữ bất tử.
Thật đáng
tiếc nhưng không thể tránh được là có
những em, không biết ǵ khác ngoài việc say sưa
những thông tin truyền thống được trao
truyền, thường có khuynh hướng tin tất
cả những ǵ mà người lớn kể cho chúng
bất kể là đúng và tốt hay không đúng và vô
nghĩa. Nhiều điều mà người lớn kể
cho con cái họ là thật và dựa vào những bằng chứng
và nếu những điều kể ấy không thật th́
ít nhất cũng phải có ư nghĩa. Nhưng không có ǵ
ngăn cản các em tin những điều không thật,
ngớ ngẩn hay là xấu nữa. Và các em này sẽ làm ǵ
khi các em này trưởng thành ? Dĩ nhiên các em này lại
trao truyền lại cho thế hệ kế tiếp.
Bằng cách này một điều ǵ đó gắn liền
với niềm tin - dù hoàn toàn không thật và cũng không bao
giờ có lí do nào để tin - lại luôn luôn
được trao truyền tiếp.
Điều ấy
có xảy ra như vậy với các tôn giáo không ? Hoặc
bây giờ chúng ta nói về niềm tin vào Chúa hay các thần,
niềm tin vào thiên đàng, niềm tin là Đức bà Maria
không chết, Chúa Giê-su không có cha là loài người, niềm
tin là lời cầu nguyện sẽ được
lắng nghe, rằng rượu nho sẽ trở thành máu
th́ không có một niềm tin nào trong những niềm tin này
có bằng chứng. Thế nhưng hàng triệu
người lại tin như vậy. Có lẽ v́ họ
đă được kể cho nghe lúc họ c̣n quá nhỏ
nên dễ dàng tin bất cứ cái ǵ.
Nhiều triệu
người khác lại tin khác hơn v́ họ
được nghe kể những sự việc khác khi
họ c̣n trẻ. Những trẻ em Hồi giáo
được nghe những sự việc khác hơn
những trẻ em Thiên chúa giáo nhưng cả hai đều
lớn lên trong sự tin tưởng trọn vẹn là ḿnh
đúng và những người khác không đúng. Và trong
thế giới Thiên chúa giáo, những người Công giáo La
mă tin nhiều sự việc khác hơn Tin Lành Calvin, Tin Lành
Luther, vân vân. Và tất cả đều hoàn toàn tin
tưởng là ḿnh đúng và những người khác không.
Những người này tin các sự việc khác nhau v́
những lí do cũng giống như tại sao bạn nói
tiếng Anh c̣n bạn gái của bạn nói tiếng
Đức. Hoàn toàn thích hợp khi ở bên Anh nói tiếng
Anh c̣n ở bên Đức nói tiếng Đức, nhưng
không thể có việc các tôn giáo lại đúng ở
nước này mà không đúng ở nước khác. Đó là
chưa nói tới ngay trong các tôn giáo cũng có những chân
lí trái nghịch nhau. Không thể có chuyện như thế
này là Đức Bà Maria sống ở Cộng ḥa Ái Nhĩ
Lan Công giáo c̣n chết ở Bắc Ái Nhĩ Lan Tin Lành.
Xem như vậy
th́ truyền thống có khi có tác động tốt nhưng
có khi lại đưa đến một mối nguy
rất lớn. Đó là nó ngăn cản chúng ta tiếp
nhận nhưng thông tin không giống như chúng ta đă
biết qua truyền thống.
Trước t́nh
trạng có những điều được thông tin
dựa vào bằng chứng, lẫn lộn với những
điều được thông tin dựa vào niềm tin
ở truyền thống, ở uy quyền hay ở mặc
khải, chúng ta phải làm ǵ ?
Rất đơn
giản. Nếu có ai kể cho chúng ta một điều ǵ
có vẻ quan trọng chúng ta có thể tự suy nghĩ :
"Điều này người kể biết
được do có bằng chứng hay chỉ do dựa
vào niềm tin ở truyền thống, ở uy quyền
và ở mặc khải ?". Hoặc có người
kể cho chúng ta một sự kiện ǵ mà họ nói là
đúng th́ chúng ta có thể hỏi : "Có những
bằng chứng nào để xác quyết sự kiện
này ?". Và nếu chúng ta không có được câu trả
lời thoả đáng th́ theo tôi nghĩ, chúng ta phải xem
xét lại và suy nghĩ thật kĩ trước khi chúng ta
tin vào lời nói mà chúng ta đă nghe.
2. Ảnh
hưởng của câu trả lời với việc
thực thi dân chủ
Như chúng ta
biết dân chủ là phương pháp để giúp
những con người khác biệt nhau có thể sống
chung và làm chung với nhau mà vẫn bảo vệ
được sự khác biệt của nhau. Nội dung
của dân chủ là các quy định chung như luật
chơi, luật pháp và khế ước.
V́ sự khác
biệt nên mỗi người đều có những tiêu
chuẩn riêng và khác nhau về đủ loại chẳng
hạn như về quyền tự do, về công minh,
về b́nh đẳng. Thí dụ về quyền tự do.
Một nguyên tắc sơ đẳng của việc hành
xử quyền tự do là "Tôi được hành
xử quyền tự do của tôi tới khi việc hành
xử quyền tự do của tôi vi phạm quyền
tự do của người khác". Nhưng thế nào là
vi phạm quyền tự do của người khác ?
Mỗi người đều có những tiêu chuẩn riêng
về việc vi phạm quyền tự do của
người khác. V́ vậy chúng ta cần phải có một
quy định chung về việc thế nào là vi phạm
quyền tự do của người khác. Quy định
chung này phải được áp dụng cho mọi
người, không trừ một ai. Khi cần phải phán
quyết về việc vi phạm quyền tự do,
tất cả đều dựa vào quy định này
để phê phán. Như vậy là có công minh, có b́nh
đẳng. Một lí do nữa về việc cần có những
quy định chung là chúng ta chỉ thực sự hành
xử dân chủ khi chúng ta biết đề ra những quy
định chung để sống và làm việc với
nhau. Nói cách khác nếu chúng ta không biết xây dựng
những quy định chung để sống và làm
việc với nhau th́ chúng ta chưa phải là những
người biết thực thi dân chủ. Ngoài ra,
để sống và làm việc chung với nhau đ̣i
hỏi phải có sự tin tưởng nhau. Trong dân
chủ, sự tin tưởng nhau chủ yếu dựa vào
những quy định chung. Những kiểu tin
tưởng dựa vào cảm tính rất nguy hiểm cho
việc thực thi dân chủ bởi v́ nó dễ gây ra xích
mích và đưa đến độc tài. Đó cũng là
lí do đ̣i hỏi phải có những quy định chung
cụ thể nếu muốn thực sự thực thi dân
chủ.
Các tổ chức
người Việt thường bàn rất nhiều
về dân chủ nhưng chỉ bàn suông. Nhiều
người nghĩ rằng chỉ cần có ư muốn
thực thi dân chủ và soạn thảo một nội quy
sinh hoạt hay một quy ước sinh hoạt tổng
quát là đă thực thi dân chủ. Sau đó chỉ cần
nói và hô hào về dân chủ là có dân chủ. Họ không
nghĩ nội quy hay quy ước chỉ là một bản
văn nền tảng có tính tổng quát để quy
chiếu vào đó mà soạn thảo những quy
định cụ thể rơ ràng về từng vấn
đề. Chẳng hạn như quy định về
việc thảo luận, về việc phân công, về
nhiệm vụ của mỗi người : làm ǵ và chỉ
được làm tới đâu vân vân. Càng có những quy
định cụ thể và rơ ràng về từng vấn
đề và mọi người đều tuân theo nghiêm túc
những quy định này th́ càng có ít mâu thuẫn và bất
măn. Nhưng họ đă không bàn đến những quy
định cụ thể của việc làm chung. Bởi
vậy các tổ chức người Việt đă không
phát triển và lớn mạnh được để có
thể làm những công việc to lớn có kết quả.
Và nhiều tổ chức c̣n bị tan ră v́ lí do này và v́
thế lại bị mang tiếng là sa lông.
Ở đây tôi
không nói tới các tổ chức bịp bợm
được lập ra chỉ để lấy danh
hoặc các tổ chức được lập ra để
chạy trốn mặc cảm chẳng hạn như
"mặc cảm ta không làm ǵ". Họ sợ bàn
đến những quy định cụ thể về
việc làm chung. Bởi v́ khi đă có những quy
định ấy mà họ lại không làm hoặc làm không
được th́ bộ mặt thật hám danh, ngu dốt
hoặc chỉ muốn nói mà không muốn làm của họ
bị lộ ra.
Nhưng làm thế
nào để đi đến một quy định chung ?
Thưa, đó chính là thảo luận. Thảo luận
để có thể đưa ra được những
đề nghị cụ thể, hợp t́nh, hợp lí và
phù hợp với thực tế về những quy
định cần phải có. Sau đó biểu quyết
chọn một trong những đề nghị này
để đem ra thi hành.
Nhưng có một
câu hỏi cụ thể được đặt ra là
phải thảo luận thế nào để có
được những quy định cụ thể,
hợp t́nh, hợp lí và phù hợp với thực tế ?
Mỗi người chúng ta được giáo dục trong
những truyền thống khác nhau và v́ vậy có những
cảm nhận khác nhau cũng như tin vào những uy
quyền khác nhau. Vậy phải làm sao để có thể
thảo luận với nhau và đi đến những quy
định mà mọi người đều có thể
đồng ư ? Cách tốt nhất là việc thảo
luận phải được dựa vào những sự
kiện thật và đúng có nghĩa là những sự
kiện có bằng chứng cụ thể. Không thể
dựa vào những sự kiện tưởng
tượng. Bởi v́ ai cũng có thể tưởng
tượng ra đuợc muôn vàn sự kiện mà những
sự kiện tưởng tượng này lại rất
khác biệt nhau tuỳ theo đương sự
được giáo dục theo truyền thống nào. Cho nên
để có thể đi đến đồng thuận
cụ thể và thực tiễn th́ chỉ có một cách là
thảo luận với những lí lẽ và dữ kiện
dựa vào những bằng chứng cụ thể mà ai
cũng có thể tự kiểm chứng được.
Trong phần bàn
về "Tại sao ta biết những điều ta
biết?" chúng ta đă thấy tin theo truyền
thống, uy quyền và mặc khải là đầu mối
của nhiều cách suy nghĩ khác biệt và là nguồn
gốc của rất nhiều cuộc chiến tranh trên
thế giới. Mà thực thi dân chủ là muốn
đạt đến những thoả thuận v́ vậy
cách tốt nhất là thảo luận với những lí
lẽ và sự kiện dựa vào bằng chứng cụ
thể. Nói cách khác trong thảo luận, cách suy nghĩ
dựa vào bằng chứng cụ thể là cách tốt
nhất để giảm bớt sự khác biệt và giúp
đi đến những đồng thuận.
Bây giờ chúng ta
lại bàn về ảnh hưởng của cách suy nghĩ
tin vào truyền thống, uy quyền và mặc khải
đối với việc gây ra các thành kiến và
đối với việc làm giảm bớt các thành
kiến.
Như chúng ta
biết thành kiến luôn luôn là chuớng ngại ngăn
cản con người tin nhau và ngồi lại với nhau.
Nhưng thành kiến do đâu mà có ? Thành kiến có, do
những thông tin chúng ta tiếp nhận. Khi tiếp nhận
những thông tin không tốt về một người nào
đó, làm cho trong đầu chúng ta có ấn tượng
không tốt về người này tức là chúng ta có thành
kiến với người ấy. Từ thành kiến này
chúng ta cảm thấy không thích nói chuyện và hợp tác
với họ.
Nhưng những
thông tin chúng ta tiếp nhận đó có thể đúng
hoặc sai. Như chúng ta biết những thông tin chúng ta
tiếp nhận từ những nguồn dựa vào
truyền thống, uy quyền hoặc do cảm nhận
thường sai. Những thí dụ về việc thông tin
dựa vào truyền thống, uy quyền và mặc khải
trong số người Việt có rất nhiều. Sau
đây chỉ nêu ra vài thí dụ cụ thể về thông
tin dựa vào truyền thống, uy quyền hoặc cảm
nhận đối với việc gây ra những thành
kiến.
Có một số
người Việt Nam được giáo dục trong
truyền thống ghét đạo Công giáo thường nh́n
những người công giáo như những người
phản quốc, chỉ nghĩ đến La Mă và làm tay sai
cho ngoại bang. Ngoài ra họ c̣n xem những người
Công giáo này là những người luôn luôn chỉ thấy có
ḿnh đúng nên không biết tôn trọng những người
có tư tưởng và lối sống khác. Do truyền
thống giáo dục này họ có thành kiến không tốt
về những người Công giáo. Nên khi phải gặp
hoặc phải làm việc chung với những
người Công giáo, họ có thái độ thủ thế
và không tin tưởng những người Công giáo này.
Lại có một
số người khác không có thói quen suy nghĩ độc
lập nên luôn luôn tin vào những điều mà một
người có uy tín nào đó nói (hoặc bạn bè nói).
Từ đó họ có thành kiến. Thí dụ họ nghe
một người có uy tín nói về một cá nhân nào đó
không tốt và làm tay sai cho cộng sản. Họ không
thắc mắc về những bằng chứng. Do đó
họ tin ngay và có thành kiến về cá nhân ấy. V́
vậy họ tránh xa cá nhân này.
Cũng có những
người khi gặp một người nào đó lần
đầu tiên thấy người ta không niềm nở
vồn vă với ḿnh v́ vậy có cảm giác người này
không tốt và từ đó nghĩ là người này không
tốt. Họ không cần kiểm chứng cảm giác này
bằng bằng chứng. Và do đó họ có thành kiến
về người này và không thích gặp và làm việc chung
với người này.
Giả sử chúng
ta có thói quen xét lại những điều chúng ta
được giáo dục, được nghe và
được thấy dựa vào bằng chứng, có
lẽ chúng ta đă bỏ bớt được rất
nhiều điều tin tưởng không đúng và v́
vậy cũng bớt đi được rất
nhiều thành kiến.
Chẳng hạn
việc những người Công giáo chỉ nghĩ
đến La Mă và làm tay sai cho ngoại bang. Nếu chúng ta
xét lại vấn đề này dựa vào bằng chứng
chúng ta sẽ thấy chỉ có một số người
nào đó đặt quyền lợi La mă trên quyền
lợi đất nước. C̣n đại đa số
những người theo đạo Công giáo rất yêu
nước, biết đặt quyền lợi đất
nước trên hết. Khái quát hóa một sự việc
của một vài cá nhân luôn luôn làm cho chúng ta có những nhận
thức sai. Trong tập thể nào cũng có những
người xấu. Không phải chỉ có những
người công giáo mới làm tay sai cho ngoại bang.
Lịch sử đă cho thấy có nhiều người
không công giáo đă làm tay sai cho ngoại bang v́ quyền
lợi riêng tư.
Nếu khi chúng ta
nghe một người nào đó có uy tín (hay bạn bè
của ta) nói về một sự kiện nào đó mà chúng
ta luôn luôn hỏi bằng chứng th́ chắc là chúng ta
cũng bớt được rất nhiều thông tin sai.
Và từ đó cũng bớt đi rất nhiều thành
kiến.
Nếu chúng ta xét
lại một người nào đó mà v́ dựa vào cảm
giác, chúng ta đă phê phán họ không tốt, bằng
những bằng chứng th́ có lẽ chúng ta sẽ thấy
họ không giống như chúng ta nghĩ và nhiều khi chúng
ta lại có thêm một người bạn mới.
Tóm lại nếu
chúng ta luôn luôn kiểm chứng những thông tin nhận
được bằng những bằng chứng cụ
thể, chúng ta sẽ tránh được rất nhiều
thông tin không đúng sự thật. Nhờ đó cũng
sẽ bớt được rất nhiều trường
hợp ông nói gà bà nói vịt trong việc thảo luận.
Và kết quả là việc thực thi dân chủ sẽ
dễ dàng trở thành hiện thực.
Phan Tùng Chính (Dracten, Ḥa Lan)