Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

Trở về trang chính

THÂN PHẬN TRÍ THỨC

 

Tác giả: Vũ Tài Lục

PHẦN MỘT

THÂN PHẬN

CHƯƠNG THỨ NHẤT

PHẨM ÐỨC

Phần tử trí thức? Là người đem lại giá trị cho những gì mà tự chúng không có. (PAUL VALÉ RY)

Phần tử trí thức? Tôi muốn nói đến những người suy tư, không phải bọn lộng chữ, lợi dụng, bịp bợm và ăn bám...(HENRI BARBUSSE)

NGUỒN GỐC CỦA DANH TỪ

Phần tử trí thức là trực nghĩa dịch từ chữ Intellectuel của Pháp. Tra tự điển để tìm lời giải của chữ đó thì chỉ thấy ghi vắn tắt : phần tử trí thức là người hoặc vì thị hảo hoặc vì nghề nghiệp quan tâm đến những công việc tinh thần. (Personne qui s'occupe par gouÁt ou par profession des choses de l'esprit). Theo Hồ Thu Nguyên viết trong tập Trung Quốc Cổ Ðại Trí Thức thì phần tử trí thức là những người hiểu trước biết trước (tiên tri tiên giác) rồi đem sự hiểu biết học hỏi của mình cống cho tiến bộ nhân loại, xã hội dân tộc. Nói chung người sáng tạo tư tưởng kỹ thuật, tri thức gọi là phần tử trí thức.

Cổ xưa Hy Lạp dùng danh từ trí giả (sophist) hay ái trí giả (phisolopher). Người La Mã dùng danh từ văn sĩ (idéologue). Ở Trung Quốc có nhiều danh từ khác nhau để chỉ phần tử trí thức: Nho, Sĩ, Thánh, Hiền, Văn Nhân, Học sĩ rồi gộp chung lại dưới danh từ người đọc sách (độc thư nhân).

Người trí thức rất khó có một hình dạng rõ rệt, nếu bảo những người có bằng cấp là trí thức thì những người tự học (autodicdacte) thì saỏ Vả lại các bậc Thầy của nhiều thuyết lớn xưa nay đa số chẳng có bằng cấp chi hết. Cũng không thể bảo nhất định một ông giáo sư đại học trí thức hơn ông giáo sư trung học v.v...

Hình dạng người trí thức lại càng không rõ rệt khi người ta muốn tìm nó thuộc giai cấp nào? Mức sống ra saỏ Thường làm nghề nghiệp gì? Bên Pháp chẳng hạn đa sốchấp nhận phần tử trí thức quy tụ vào hai loại hình (type)

a_ Trí thức giáo dục (intellectuel enseignant)

b_ Trí thức viết văn (intellectuel ecrivant)

Nhưng có một số người không chịu, và cho rằngnhững bác sĩ, kỹ sư làm nghề chuyên môn của mình vẫn có thể là một phần tử trí thức chớ. Tại các nước chậmtiến tùy theo trình độ có nơi với sức học bổ túc đã được kính trọng tôn xưng là phần tử trí thức rồi

Câu hỏi ai được kể làm phần tử trí thức là câu hỏi khá phức tạp đã làm rức đầu các sử gia và các nhà xã hội học không ít, rút cục đến bây giờ họ vẫn phàn nàn chưa tìm được một thực thể cho trí thức (substantifier).

Nhưng về đời sống của người trí thức thì rõ rệt nó liên quan rất nhiều đến chính trị . Tại Âu Châu nó ra đời bởi một vụ chính trị sôi nổị Các nhà văn Emile Zola, Anatole France, Halevy, Buinot, Leon Blum v.v... ký chung bản kháng nghị đối với vụ sử oan đại úy Dreyfuss. Thủ Tướng Clemenceau đã gọi kháng nghị này là Tuyên Ngôn Của Trí Thức (Manifeste Des Intellectuels). Từ đó chữ intellectuel được mọi người thưởng thức, nó được kể như một danh từ mới mẻ vì danh từ này không hề thấy ghi trong tự điển Larousse in năm 1866-1878 hay cuốn Ðại Bách Khoa in năm 1885-1902, người ta chỉ thấy chữ intellectuatisme ghi trong cuốn Vocabulaire Philosophigue của Lalande mà thôị Như vậy là chữ phần tử trí thức khai sinh bằng một thái độ chính trị . Edgar Morin đã nghĩ rất đúng khi viết câu này:

"Nhà văn viết cuốn tiểu thuyết là nhà văn, nhưng khi ông ta nói về những tra tấn đau khổ ở Algerie thì ông ta là một người trí thức. "

(L'ecrivain qui ecrit un roman est ecrivain, mais s'il parle de la torture en Algérie, il est intellectuel).

Phương Tây như thế, phương Ðông cũng vậy, theo tâm lý cổ truyền của người Trung Quốc thì những danh từ có chứa chất tính cách về trí thức thường dành cho những người có sự nghiệp tốt. Tỉ dụ gọi vua Nghiêu, vua Thuấn là Thánh Vương, gọi các Tể Tướng Quản Trọng, Lưu Bá Ôn, Ngụy Trưng v.v... là Hiền.

Tất nhiên Nghiêu, Thuấn, Quản Trọng, Lưu Bá Ôn, Ngụy Trưng là những người học vấn cả thì không nói làm chi. Ðến như Triệu Phổ suốt đời chưa đọc hết quyển sách rưỡi cũng được gọi là hiền trong khi Trần Hậu Chủ, Thạch Kính Ðường, Tần Cối đều là các tay học vấn cự phách mà người đời sau chỉ nhắc đến với ý niệm ghét bỏ hôn quân, gian thần Hán gian. Còn các bậc vạn thế sư như Khổ ng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Ðỗ Phủ, Lý Bạch, Ðào Uyên Minh v.v... thì trên dưới một lòng yêu kính.

Từ lâu người phương Ðông yêu kính phần tủ trí thức ở sứ mạng kỹ sư tâm hồn, kiến trúc sư lịch sử và giồng cấy văn hóa nghĩa là những phần tử trí thức có liên quan đến chính trị.

KHỞI ÐIỂM

"Weber là một khoa học gia, ông chưa hề làm chính trị hay đã là một chính khách, chỉ đôi ba lần viết báo chính trị thôi. Thế nhưng suốt cả đời ông, ông rất say mê lo lắng tới vấn đề của quần chúng, không lúc nào ông nguôi nỗi nhớ nhung chính trị."

Trên đây là tâm sự Max Weber do Raymond Aron nhận xét: tâm sự đó cũng là tâm sự chung của hết thẩy phần tử trí thức dưới vòm trời này. Thực vậy trí thức thường là những người không quên được chính trị. Họ luôn luôn có mặt ở tầng lãnh đạo (tầng lãnh đạo thống trị cũng như tầng lãnh đạo cách mạng) mà đã ở tầng lãnh đạo thì điều phải nghĩ trước hết hẳn là chính trị. Ðối tượng của trí thức là hiện tượng nhân sinh, chính trị, xã hội, giáo dục, văn nghệ.

Trong tất cả, chính trị được chú ý bật nhất, gần như có thể nói rằng sự nhẩy vào tham gia chính trị là con đường hiệu lực nhất cho hoài bão lý tưởng đối với xã hội nhân sinh. Bởi lẽ ấy ông Khổng Tử không bao giờ ngồi nóng chiếu, ông đi khắp nơi để mong dùng thuyết của ông nắm chính quyền. Ông Mặc Tử, Mạnh Tử bôn tẩu liệt quốc. Việc giảng học viết sách của các vị này bất quá chỉ là công tác làm sau khi không được thi triển ý của mình bằng chính quyền, và giảng học trước thư cũng vẫn là sự tiếp nối nghiệp chính trị và đã đào tạo biết bao chính khách sau này. Ngay đến Lão Ðam, Trang Chu nổi tiếng với triết thuyết vô vi ẩn dật cũng không quên được chính trị bằng những lời công kích tiêu cực đối với chính trị. Ông Trần Trọng Tử ẩn tích mai danh nơi hoang dã nhất định không ngó ngàng đến chính trị, nhưng chính ông cũng phải thừa nhận nếu không nhẩy lên vũ đài chính trị thì khó lòng mà thực hiện nổi hoài bão lớn đối với xã hội nhân sinh. Ông Nguyễn Trãi theo cha lên biên ải, cha quay lại nói: "Nếu con muốn trả thù nhà thì hãy tìm cách trả nợ nước.

Trí thức là vũ khí để loài người chống lại hoàn cảnh. Trí thức tức là quyền lực. Khi đã gọi là quyền lực thì phải làm sao sử được quyền lực đến mức tố'i đa. Trong cuộc sống xã hội, chính trị bao trùm lên tất cả các sinh hoại khác, chính trị là công việc toàn chỉnh (la politique est une affaire de tous), chính trị là hoạt động tinh hoa của con người, chính trị là sự sống của xã hội. Cho nên khi người trí thức không lưu tâm đến chính trị là lúc ấy họ đã tự khước bỏ phần lớn đời sống trí thức. Joseph Shumpeter viết : Người trí thức ở khắp mọi nơi, họ nhận nhau qua một thái độ nào đó, chớ họ chẳng hề có chung một quy chế, tinh thần của họ tạo thành mối ràng buộc.

Thái độ ở đây là thái độ đối với chính trị vì chỉ có chính trị mới mang khuôn khổ rộng lớn thôi. Quái gở tới mức nào đây, nếu một người trí thức không mang một thái độ chính trị gì hết.

PHẨM ÐỨC, GIÁ TRỊ VÀ THÂN PHẬN

Ðứng trên chính trị mà nhìn nhận trí thức phần tử người ta phải nhìn tách biệt ba mặt :

a/ Phẩm đức.

b/ Giá trị.

c/ Thân phận.

Phẩm đức của trí thức là gì? Hãy nghe, nhóm ông Ðoàn Phú Tứ định nghĩa :

Trí thức tức là sáng suốt, tức tự do toàn vẹn của tinh thần, tức biệt lập của tinh thần, tức biệt lập, cái biệt lập của áng danh son, tức thanh cao, cái thanh cao không đổi dời của kẻ sĩ, cái thanh cao không vụ ích lợi của ngọc châu.

Trí thức là sáng tạo. Cuộc sáng tạo đầu tiên của trí thức là tự tạo. Tự trong một đợt tình trác tuyệt khi hồn tan trên một nét anh đào.

Tự tạo trong một thế hệ nhập thiền, trong một đường thánh giá.

Tự tạo trong một ngọn gió đùa, trong một cành hoa nắng dỡn.

Trí thức là tinh thần tiên phong. Cốt cách tài tử.

Cá tính độc lập. Phong độ trượng phu.

Không hề trưởng giả nhưng vương giả,

Không lo thành đạt, nhưng lúc nào cũng thông đạt.

Không làm thượng nhân, nhưng làm cao nhân.

À Phẩm đức của phần tử trí thức nói theo lý tưởng thực là viên ngọc không tì vết. Tuy nhiên không phải cứ có phẩm đức là có luôn giá trị. Trên chính trị, phẩm đức, giá trị và thân phận là ba vấn đề tách biệt nhau. Ðó là cái lý do tại sao đôi lúc người ta phải nhận rằng người trí thức không bằng cục cứt là đúng.

Phẩm đức là lương tâm người trí thức không vào con đường phản chính nghĩa, phản động, không làm tay sai cho ác thế lực.

Giá trị là khả năng người trí thức, phải có cái biết có thể biến thành quyền lực, bởi vì khi dấn thân vào thực tế tàn nhẫn, khả năng là điều kiện không thể thiếu được.

Thân phận trí thức sẽ tùy sự lưa chọn với thực tế, tùy sự yếu kém, phẩm đức hay giá trị, tùy theo sự mâu thuẫn giữa phẩm đức và giá trị mà biến đổi.

QUÊN KHÔNG ÐƯƠC CHÍNH TRỊ

Một khi đã say mê chính trị và nhận chính trị như người tình không thể thiếu được thì lúc tuyệt vọng với chính trị người trí thức như mất hết lẽ sống. Cái chết của Khuất Nguyên là điển hình khai mở cho thân phận trí thức với chính trị.

Kể trong các nhà thơ lớn của Trung Quốc thì :

Ðỗ Tử Mỹ, người đời xưng tụng là thi thánh,

Lý Thái Bạch là thi tiên,

Vương Ma Cật là thi Phật,

Lý Trường Cát là thi quỷ.

Ðỗ Tử Mỹ thuộc phái tả thực,

Lý Thái Bạch thuộc phái lãng mạn,

Vương Ma Cật thuộc phái tự nhiên,

Lý Trường Cát thuộc phái duy mỹ.

Tất cả các phái trên đều có chung một nguồn là Kinh Thi và tập thơ Ly Tao của Khuất Linh Quân tức Khuất Nguyên. Ly Tao có một ngôi vị cao nhất trên thi đàn Trung Quốc, tập thơ ấy được coi như vị vua hay bài ca trong các bài ca, hay nhã ca là cái đẹp tuyệt độ không thể đẹp hơn nữa.

Ly Tao là gì? Là nỗi buồn ly biệt. Nỗi buồn lybiệt với chính trị . Khuất Nguyên sáng tác tập thơ này khibị Sở Vương đuổi lần thứ haị Lần ông về Giang Nam, nơicó rất nhiều cảnh sắc riêng biệt của nước Sở , những cánh đồng cỏ bao la xanh ngắt, chim oanh bay từng đàn. Giang sơn Sở càng đẹp càng làm cho Khuất Nguyên lo lắng, ôngbiết cường Tần thế nào cũng xâm lược Giang Nam, cái đẹp kia sẽ ra sao nếu gót giày xâm lược dẫm lên, bao nhiêu vui ca rồi đây sẽ thành hoang phế điêu tàn. Nhưng làm thế nào gọi tỉnh được người Sở trong cơn mê muội. Trong triều toàn một bọn nịnh thần, nơi điền dã chưa ai biết nỗi thống khổ mất nước. Còn phận mình chỉ là một kẻ vong thần, cô lập, bị lưu đầỵ Ông tự nghĩ tâm linh trung kiên khả dĩ tiến đến chân lý, tuy vậy chân lý của một người thì làm sao chống lại với cái hư ngụy của số đông. Chân lý với gian tà, tinh khiết và sú uế lẫn lộn làm rối loạn cõi trần thế. Bỏ trần thế mà đi bo/ không đành, vất chân lý ra khỏi tâm hồn, vất không nỡ. Khuất Nguyên vùngvẫy trong tuyệt vọng giống như con thiên lý bị sa vào cát lầỵ

Có lần ông hỏi Trịnh Thiềm Doãn :

"Thưa Thái Phó, trung với tà, thiện với ác, chân lý với hư ngụy, trinh khiết với sú uế có thật là không thể sống chung với nhau chăng? Tôi rất yêu nhân gian mà tôi cũng rất thù hận nhân gian, tôi phải chọn điều nào đây? Tôi nên giữ tấm lòng trinh khiết để tự cô lập bằng thái độ cao thượng hay tôi nên hoà mình với số đông tùy tục phù trầm theo thời thế?"

Trịnh Thiềm Doãn nói :

"Thưa Ðại Phu, xin ngài hãy làm theo tâm ý của chính ngài, tôi làm sao hồi đáp được vấn đề quá to tát như vậy."

Ít năm sau, binh Tần mang quân công hãm Sở quốc, Sở mất nước, nhân dân Sở lầm than. Khuất Nguyên nhìn nước non gấm vóc, đâu đâu cũng chỉ thấy hoang loạn, đâu đâu cũng đầy vết tích diệt vong. Ðau nhục, Khuất Nguyên thả chiếc thuyền nhỏ trên Ðộng Ðình Hồ mặc sóng gió giận dữ. Ông thầm nghĩ : ta phải chết, ta phải có một cái chết lỗi lạc. Chết không để giải thoát mà chết để phản kháng, Phản kháng tà ác gian nịnh trên thế gian này. Hỡi người nước Sở thân yêu, người nước Sở đáng thương, tại sao các người không tiếp nhận tấm lòng thành của ta? Tại sao không chịu hiểu nỗi trinh kiên âm thầm của ta?

Nước non ơi, những bài ca u hoài của nhân dân nước Sở, người có biết sự hung bạo của vó ngựa xâm lăng bạo Tần không? Trời xanh hỡi quả thật có chính nghĩa không? Tại sao không lưu lại cho nhân gian nhất điểm chính nghĩa? Các thần linh của Sở quốc! Các người nhẫn tâm để cho dân Sở bị dày xéo, bị diệt vong ư? Không thể thế được, nhân dân Sở không thể tiêu diệt, giang sơn Sở không thể bị nô lệ. Cái lỗi của Khuất Nguyên là đã để mọi người say mà riêng mình tỉnh.

Qua Ðộnh Ðình Hồ, Khuất Nguyên cho thuyền rẽ vào sông Mịch La, nước mắt tràn trụa, ông lặng yên nhìn mây trời mông mênh hồi lâu rồi lao mình xuống sông. Ông đi tìm cái chết vì sinh mệnh của ông từ lâu đã mất rồi. Sinh mệnh ấy là sinh mệnh chính trị.

PHẨM VỊ CỦA PHẦN TỬ TRÍ THỨC

Sinh mệnh của một quốc gia ở văn hóa học thuật của quốc gia đó. Sinh mệnh lực của một quốc gia đại bộ phận do phần tử trí thức nắm giữ. Sự sinh tồn và tiến bộ của đất nước do nơi tôn trọng học vấn, do nơi phần tử trí thức trong xã hội có trách nhiệm tâm và tự tôn tâm hay

không.

"Hiếu học cận hồ trí". Chuộng sự học vấn, tôn trọng người đọc sách là căn bản xây dựng đất nước. Trường học bao giờ cũng là cơ sở của chính trị . Nước văn hiến là nước tôn trọng học vấn, yêu chuộng trí thức, nước văn hiến là nơi thường có hiện tượng "cường đạo không xâm phạm người đọc sách" như giặc Hoàng Cân không đốt phá quê hương ông Trịnh Huyền. Hoàng Sào không giết các nho sinh.

Tôn trọng người có học và trí thức có lòng tự tôn không phải là tâm lý tự cao tự đại của phần tử trí thức. Ở nước ta xưa nay sĩ đứng đầu hàng tứ dân nên có câu "sĩ nông công thương" và "ngư tiều canh độc". Học vấn là nền móng của tất cả mọi nghề nghiệp. Tôn trọng người đọc sách tuyệt nhiên không phải là bảo trì địa vị hay giai cấp đặc thù mà là tôn trọng học vấn và trí thức, nghĩa là tôn trọng hai thứ vũ khí hiệu lực nhất để cải tạo sinh hoạt, cải tạo xã hội và cải tạo quốc vận.

"Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao"

Cao đây là cao phẩm gía không phải cao quyền thế hay cao tiền bạc.

"An đắc quảng hạ thiên vạn gian

Ðại tì thiên hạ hàn sĩ tận hoan nhan"

(Nghĩa là:

Mong mỏi sao cho có căn nhà lớn hàng trăm ngàn gian,

Ðể che chở cho kẻ hàn sĩ trong thiên hạ ai ai cũng mang vẻ mặt hân hoan. )

Câu thơ của Ðỗ Công Bộ nói rõ lên cảnh nghèo của kẻ sĩ. Cụ Nguyễn Khuyến cũng có bài phú để tả tình trạng thầy đồ:

"Vài khoa thi hỏng sót ruột tiền cơm, mấy tháng công non bấm gan thóc nợ.

Vách ông Khổng còn hòm khoa đẩu mở một vài con, ngõ thầy Nhan treo túi đan biều bảo dăm ba đứạ

Nón sơn úp ngực đi liểu đi liều, bút thùy cài tai sớn sơ sớn sở.

Nghĩ sểnh nhà ra thất nghiệp, cũng bật như cười e nằm mát ăn bát đầy ai nuôi không hở. "

Nhan Hồi được tôn lên hàng nhân vật điển hình của chủ trương an bần lạc đạo do Nho gia đề xướng. Ngụ nơi ngõ hẹp, một lẵng cơm, một bầu nước, người đời lo còn Hồi thì lúc nào cũng vuị Người trí thức thường nghèo, tuy vậy không phải cứ nghèo mới là tốt. Khổng Tử có lần nói: "Nếu cái giầu mà có thể cầu được thì dù làm một kẻ cầm roi ngựa ta cũng làm ". Rồi ông nói: "Cái phú quí bất nghĩa đối với ta chẳng khác gì mây nổi, người quân tử kiên trì với cảnh nghèo, kẻ tiểu nhân hễ nghèo là tìm cách làm bậy".

Thực tế hơn, Mạnh Tử cho rằng: "Nghèo khổ đến với kẻ sĩ là bởi trời muốn thử thách, dùng nghèo để động tâm nhẫn tính, dùng khổ để tăng thêm tài năng."

Nói chung, chữ trí thức trong tâm tưởng mọi người hình như nó mang một thứ phép nhiệm mầu làm cao giá người được nó nhận, ai ai cũng muốn nó đến với mình ngaỵ Lúc người ta mang gán nó cho kẻ khác với chủ ý chế riễu hay công kích mà sâu kín trong lòng lại thấy tủi hổ nếu nó từ chối mình. Nghĩ đến trí thức, mọi người đều cảm nhận ở nó một cái gì gọi là tao nhã và cao quí. Chính vì thế nên xưa kia Tể Tướng Cao Lực Sĩ mới phải mài mực cho Lý Thái Bạch viết vào bài thơ của họ Lý, bài thơ ca tụng cái đẹp của Dương Quí Phi, cao hứng rồi giả say Lý Thái Bạch dơ chân đạp cho Cao Lực Sĩ ngã lăn. Ðời sau nghe chuyện chẳng người nào không thích thú, thích thú như một người được hả cơn giận.

Nếu tham vọng chính yếu của phần tử trí thức là tham vọng trị quốc bình thiên hạ thì ngược lại tham vọng chính yếu của các chính khách là tham vọng muốn tỏ ra mình là trí thức. Raymond Aron rất có lý khi viết câu này:

"Tham vọng chính trị của các nhà văn thành công đã đụng đầu với những tham vọng văn chương của các chính khách. Người thì mơ viết một cuốn tiểu thuyết tuyệt tác, người thì mơ làm bộ trưởng".

ÍT NHIỀU KHÁC BIỆT GIỮA ÐÔNG TÂY

Trí thức Ðông và Tây đều không quên được chính trị .

Trí thức Ðông và Tây đều vào chính trị bằng con đường yêu nước và cách mạng.

Ở lòng yêu nước họ gặp nhau, nhưng ở cách mạng họ có điểm khác biệt. Khác biệt bởi hai nền văn hóạ

Trở về với thần thoại, Promethée sau một trận giặc nhất định không đứng về phe người trời Olympien nữa, Promethée muốn ngả về phe người trần. Ðể cho loài người mạnh lên, Promethée thấy lửa sấm sét của Jupiter là thứ vũ khí lợi hại nên quyết lấy cắp lửa mang xuống cho loài ngườị Từ đấy nhờ Promethée mà loài người có lửa dùng. Jupiter biết giận lắm cho gọi thần thợ rèn Vulcain đến bắt Promethée và cùm ở chân núi Caucasẹ Chưa nguôi Jupiter còn thả chim ưng hằng ngày đến moi ruột rỉa gan Promethéẹ Hết năm này qua tháng khác, đau đớn Promethée kêu gào vang động.

Ðời vua Nghiêu, có tới mười mặt trời thiêu đốt nhân gian khiến mùa màng khô héo, sông nước cạn. Vua cho rao khắp thiên hạ cần người hiền tài đến giúp. Có Hậu Nghệ bắn cung cực giỏị Hậu Nghệ lên một đỉnh núi cao chót vót dương cung bắn chín lần chín mặt trời rơi xuống đất. Từ đấy ở trần gian sông hồ lại đầy nước, cây cỏ tốt tươị

Ngay thời kỳ thần thoại, Ðông phương đã kiến thiết rất vững chắc tinh thần nhân văn. Promethée mới chỉ phạm tội ăn cắp chút lửa trời mang xuống nhân gian mà đã phải chịu một hình phạt nặng đó. Trái lại Hậu Nghệ đã nhân danh loài người đánh bật những ác độc của thượng đế.

Sau này Tây Phương một thời gian khá dài bị úp chụp trong vòng kiềm tỏa của tôn giáọ Ðiều này tạo nên điểm khác biệt cho vận động trí thức của Tây Phương với Ðông Phương (khu vực văn minh Trung Quốc).

Với quan niệm đại tự nhiên của chủ nghĩa nhân văn mọi cuộc đấu tranh lịch sử đều là quy luật đại tự nhiên hết Xuân sang Hạ hết Thu sang Ðông thuận lẽ trời. Lẽ thuận tự sẽ thực hiện trong xã hội nhân loại khi nào đa số đồng ý gọi là hợp lòng người. Cho nên những biến động lịch sử thường mang tiêu đề : diệt kẻ vô đạo mà không bao giờ có tiêu đề dành Tự Do.

Trái lại ở phương Tây mỗi biến động lịch sử đều chịu ảnh hưởng của hai thế lực Thế quyền và Thần quyền. Kẻ thống trị phải có sự thỏa thuận của Giáo Hội. Hết thẩy quyền phán xét bất cứ mặt nào của sinh hoại của sự sống đều phải dành cho giáo quyền. Những cấm điều do Giáo Hội đưa ra làm thành chuỗi xích nặng nó trói buộc con người. Muốn lật đổ chính quyền phải đủ khả năng lật đổ thống trị tâm lý tinh thần của giáo quyền nếu không thì biến động chỉ loanh quanh trong cái vòng luẩn quẩn giữa những âm mưu của các lực lượng khác nhau trong chính quyền và giáo quyền nghĩa là quí tộc phong kiến và tập đoàn tăng lữ. Vận động trí thức vì lẽ trên phải trải qua giai đoạn đấu tranh giải phóng tư tưởng chống thần quyền mà Tư Do là tiêu đề. Tự Do mang một ý nghĩa thiêng liêng trong tâm khảm của người Tây Phương.

Tinh thần người trí thức của chủ nghĩa nhân văn Nho đạo là : giáo hóa quốc dân đoàn kết quốc dân, bảo vệ giang sơn mang trách nhiệm tâm cực lớn phấn đấu cho lợi ích bình dân, có một tấm lòng tự tôn mãnh liệt để phấn đấu cho địa vị của phần tử trí thức. Ðề cao địa vị trí thức không phải là đề cao lợi ích vật chất và quyền hành bản thân mà là dùng trí lực để áp đảo vũ lực cùng kim lực của quý tộc, đề cao địa vị bình dân là đem học vấn ra làm công cụ xây dưng hạnh phúc cho bình dân.

Phong độ người trí thức của chủ nghĩa nhân văn Nho đạo là : Nho và Hiệp.

Ông Cao Dao đưa ra chín nguyên tắc cho việc tu thân :

Khoan thứ mà không đdể thành hỗn loạn.

Mềm dẻo mà vẫn vững lập trường.

Căm giận nhưng không mất vẻ khiêm cung.

Hòa đồng nhưng vẫn nghiêm nghị.

Thẳng băng mà vẫn ôn nhu.

Giản dị.

Liêm khiết.

Cứng rắn mà vẫn khéo léo.

Mạnh bạo nhưng không bất nghĩa.

Khổng Tử nói nho sĩ phải là người có đủ ba tầng nhân cách :

1) Trách nhiệm tâm : (người quân tử tu thân mình để bảo vệ trăm họ.

2) Tự tôn tâm: (không lo, không sợ, không lầm lẫn)

3) Dũng cảm.

(Trong thiên Nho hạnh của sách Lễ Ký, Khổng Tử luận phong độ nhà Nho như sau: thân có thể nguy mà chí không thể đoạt, chịu chết chứ không chịu nhục)

Ngoài ra phải kể thêm cả trạng thái tiêu cực của cả Nho lẫn Hiệp là Ẩn. Mỗi lúc thấy thời thế hỗn loạn nhiễu nhương chưa thể làm gì cứu đời giúp nước thì ở Ẩn.

THƯỢNG KHUYNH TÍNH

Tính thượng khuynh là một biến tướng của tinh thần và phong độ nói trên.

Có hai nguyên nhân:

Thứ nhất: do chế độ thi cử khai khoa thủ sĩ, học giỏi ra làm quan.

Thứ hai: quan niệm trị quốc bình thiên hạ cần ở ngôi vị cao, ảnh hưởng chính trị từ thượng tầng xã hội đi xuống mạnh hơn ảnh hưởng từ hạ tầng xã hội đi lên.

Thượnh khuynh tính là gì?

Là chỉ chăm chú tranh dành tước vị .

Vì chăm chú tranh dành tước vị cho nên phần tử trí thức thường phải dựa dẫn vào bọn đạt quan quí nhân để làm bước thang tiến thân. Văn hay chữ tốt nhưng chỉ là công cụ của bọn hào quí.

Nhan Chi Suy viết gia huấn lưu lại cho con cháu đã hết sức thống mạ tính thượnh khuynh qua nhân vật Trần Lâm. Ông nói người quân tử tuyệt giao không khi nào gây tiếng ác một ngày kia quỳ gối thờ người thật là một điều sỉ nhục. Trần Lâm ở với Viên Thiệu thì mắng Tào Tháo là lang sói, sang với Tào Tháo thì lại chửi Viên Thiệu là cua cáỵ Tình cảnh ấy thật đáng lo cho văn nhân vậỵ Do tâm chất thượng khuynh quá mạnh nên phần tử trí thức đành cam chịu cảnh:

Tung hoành chính hữu lăng vân bút.

Thủ ngưỡng tùy nhân diệc khả lân.

(Bút pháp tung hoành ái cả mây trờị

Thế mà phải cúi đầu theo người thật đáng thương.)

Tính thượng khuynh vào cách mạng đã tạo nên người cách mạng kiểu Nguyễn Hữu Cầu chứ không tạo nên mẫu người như Robespierre, nghĩa là cách mạng để đoạt ngôi vị không có cách mạng theo đuổi một lý tưởng, một ý hệ, một chủ nghĩa cách mạng, để thay đổi hoàn cảnh cá nhân không phải cách mạng cho một quan niệm sống.

Tư tưởng cách mạng của Nguyễn Hữu Cầu là làm loạn đã nẩy sinh từ lúc ông còn đang đi học qua những lời đối đáp với thầy học:

Nếu Trần Bình làm tể tướng,

Ai cấm Hàn Tín xưng vương.

Nằm thì bốn phương yên gối chiếụ

Dậy thì thiên hạ sướt thịt dạ

Nguyễn Hữu Cầu có người bạn học ngang tài mình là Phạm Ðình Trọng. Bước ra đời Trọng vì là danh gia tử đệ nên bước vào chính quyền rất dễ dàng. Cầu với gốc tích dân dã chài lưới đương nhiên Cầu phải đi vào chính quyền bằng ngả khác. Khi nghe tin Tuyển Cừ nổi lên ở Chí linh, Cầu liền theo giúp. Thanh thế Cầu về sau mỗi ngày thêm lừng lẫy tự xưng là Ðông Ðạo Tổng Ðốc Bảo Dân Ðại Tướng. Cho đến lúc hoàn toàn thất bại, suốt quá trình khởi loạn của Cầu chỉ theo đuổi mục đích:

Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa nhập vi vương.

(Chữ ngọc dấu đi nét chấm, thò lên thì là Chủ thụt xuống là chữ Vương)

Thua trận bị bắt nhốt trong cũi Cầu có mấy câu thơ sau đây:

Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán.

Phá vòng vây bạn với kim ô.

Giang sơn khách diệc tri hồ .

Những câu thơ ấy ngụ ý mong mỏi thoát thân hơn là ngụ ý mong một lý tưởng tự do .

Trái lại Robespierre chịu ảnh hưởng tư tưởng Rousseau lúc nào cũng say sưa với hoài bão thực hiện tư tưởng Rousseau kể cả lúc ông ở địa vị cao nhất. Chính vì quá khích với tự do Robespierre đã trở thành nhà độc tài của Tự Do, rồi hoài bão ấy cũng đưa ông lên máy chém.

Bởi tính chât thượng khuynh quá mạnh nên Thi Nại Am đã không thành công về sự miêu tả nhân vật Ngô Dụng một phần tử trí thức trên Lương Sơn Bạc .

Chế độ thi cử với phương châm học nhi ưu tắc sĩ (học giỏi ra làm quan). Triều đình căn cứ vào thi phú mà tuyển người nên ai nấy sống chết với văn thơ.

Thiên tử trọng anh hào.

Văn chương giáo nhi tào.

Biết nhân hoài bảo kiếm.

Ngã hữu bút như đao.

(Nghĩa là:

Vua quí trọng kẻ anh hào.

Văn chương ta đem dậy các ngươi.

Thây kệ người kia mang bảo kiếm.

Ta có cây bút sắc kém chi dao. )

Với quan niệm ấy, phần tử trí thức dần dần không coi tinh thần hiệp là yếu tố căn bản của phẩm đức nữa. Cái tâm hùng vặn phu của Lý Bạch chẳng còn, chỉ thấy cái mặt trắng của thư sinh trói gà không chặt, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.

CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN ÐẠI TỰ NHIÊN VÀ CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN TỰ DO

Nền tảng văn hóa và văn minh của Trung Quốc là nền tảng văn hóa văn minh nông nghiệp nên lý luận cơ sở nó là lý luận đại tự nhiên. Phần tử trí thức trải nhiều ngàn năm tuy có chuyển hình nhưng cũng vẫn ở trong cái vòng đại tự nhiên ấy thôi.

Trong thi ca của Ðào Uyên Minh người ta tìm thấy khá đầy đủ lý luận đại tự nhiên này.

Vũ trụ quan của ông như sau:

- Trời đất không bao giờ diệt, sông núi chẳng bao giờ rời đổi.

- Vũ trụ vô tư, vạn vật tự lý (vũ trụ không biết thiên tư muôn

ngàn hiện tượng đều tự xếp đặt lấy).

- Bốn mùa thứ tự đổi thay, phó cho tự nhiên.

Về xã hội quan ông nghĩ:

- Mấy mẫu ruộng với gian nhà cỏ, một rặng liễu rủ, một lũy tre xanh, vài khóm hoa nở, làn khói lam mờ, tiếng gà gáy sáng, ít người nông dân hiền lành.

- Hòa với thiên nhiên khai khẩn lao tác tìm cái sống.

- Sinh hoạt cốt sao cho thích ý hãy vui cho hết ngày hôm nay, ngày mai chưa cần gì vội.

Về nhân sinh quan ông nhận định :

- Vui với thiên nhiên.

- Thuận với thiên nhiên.

Ðại tự nhiên là chân lý đã sẵn có trước mắt. Tại Tây phương không như vậy, trong một thời gian khá lâu, tôn giáo Ki Tô giam buộc con người theo đuổi mục đích phượng thờ thượn đế. Không có gì thành tựu ngay trên trần tục này hết, sinh mệnh con người sẽ hoàn thành sau khi chết lên thiên đàng hay xuống địa ngục. Bởi thế phần tử trí thức phải đấu tranh giải phóng khỏi sự giam buộc đó bằng cách tìm tòi chân lý và đòi tự do.

Chủ nghĩa nhân văn phương Tây kiến lập trên hai hoạt động này cho nên phẩm đức trí thức là phẩm đức của một chiến sĩ tha thiết với tự do. Họ không bao giờ chịu thuận với thiên nhiên hay vui với thiên nhiên. Họ không vui khi được sống họ muốn suy tư và phê phán sự có mặt của họ trên cõi đời này. (Ils ne se contentent pas de vivre, ils veulent penser leur existence _ Raymond Aron).

Ðể chứng minh vũ trụ không phải do Thượng đế làm ra trong bẩy ngày mà vũ trụ tạo dựng với quy luật vật lý, Copernic đưa ra lập luận trái đất quay chung quanh mặt trời Giáo hội liền bắt giam. Bruno tiếp tục công việc của Copernic bị Giáo hội kết tội phù thủy đưa lên giàn thiêu. Galillée không sợ uy lực ngang nhiên theo gót Bruno.

Những thảm kịch của Corneille đều là thảm kịch của Tự Do (drame de la Liberté). Con người không lúc nào ngừng tìm đến Tự Do. Trong cái tuyệt đốt của Tự Do ý chí người ta tìm thấy vẻ đẹp và tính cao cả của con người. Cuốn Emile vừa ra đời nó bị hội nghị Paris lên án và đòi bỏ tù tác giả. Jean Jacques Rousseau phải trốn chạy sang Thụy Sĩ, chưa được bốn ngày, Hội Ðồng Genève cũng lên tiếng kết tội cuốn sách với bản án y hệt rồi lần lượt nhiều nơi khác nữa. Hồi tưởng giờ phút bôn ba Rousseau viết: Cả Âu Châu đang kêu gào nguyền rủa tôi với bộ mặt muốn ăn tươi nuốt sống chưa bao giờ có. Giữa lúc ở Paris Giám mục Beaumont trong một bản tuyên giáo đưa ra từng điểm để bảo rằng cuÁ'n Emile là cuốn sách hung dữ nhằm phá hoại đời sống và giáo lý công giáo.

Trả lời Beaumont, Rousseau viết:

"Tôi chỉ có một tín ngưỡng là lẽ phải và ngòi bút, tôi từ chối quyền quý của bất cứ người nào, tôi không khuât phục công thức của ai nếu tôi chưa nhận đó là chân lý".

Phần tử trí thức sản phẩm của cuộc đấu tranh chống thế quyền và thần quyền, chống tập đoàn tăng lữ và vua chúa quý tộc phong kiến hay nói khác đi là phần tử trí thức của chủ nghĩa nhân văn.

Tây phương thoát thai từ cuộc đấu tranh này có hai hình thái :

a) Khoa học, đi vào vật chất để tìm chân lý,

b) Tự do, đi vào sinh hoạt xã hội và đời sống để tìm chân lý.

(Tự do khi thể chế hóa vào chính trị là thể chế dân chủ)

Các khoa học gia mải mê đi vào cái thế giới tân kỳ này nên ít trực tiếp làm chính trị, trong khi những phát minh khoa học lại ảnh hưởng cực lớn đến chính trị, nhưng chính trị tốt theo họ là thứ chính trị có thể đem đến cho họ một phòng thí nghiệm đầy đủ nhất. Nhưng số lượng khoa học gia ngày một tăng thêm tuy người phát minh không tăng mạnh lắm, nhưng người điều khiển và kiện toàn những phát minh khoa học thì đã gấp cả ngàn lần hơn cho nên Tây phương hiện đại có hiện tượng chính trị mới là hiện tượng thư lại chuyên viên (technocrate), thư lại chuyên viên đã trực tiếp giữ vai trò quan trọng trong các cuộc vận động chính trị của phần tử trí thức mới đây . (Sẽ nói kỹ hơn ở chương sau)

BIẾN TƯỚNG

Cũng như quan niệm thượng tầng xã hội đi xuống mạnh hơn ảnh hưởng hạ tầng xã hội đi lên đã có biến tướng là thượng khuynh tính, thì quan niệm tất cả cho Tự Do cũng có biến tướng của nó.

Ngay từ lúc đầu của cuộc đấu tranh đã xuất hiện Sade hầu tước, mà danh từ văn học mệnh danh là lý thuyết gia của nổi loạn tuyệt đối (révolve absolue). Chẳng những chối bỏ Thượng Ðế, Sade còn nhìn Thượng Ðế như một kẻ giết người. Tác phẩm lớn của Sade là cuốn tiểu thuyết Justine. Trong ấy Sade kể: Justine chạy dưới trời dông tố và tên tội phạm Norceuil ngửa mặt lên Thượng Ðế mà thề sẽ trở lại đạo nếu Justine không bị hành phạt, nhưng một tiếng sét đã dánh chết Justine.

Norceuil kết tội Thượng Ðế là tên sát nhân, như vậy tất cả những điều lệ của Thượng Ðế đặt ra từ trước đến giờ đều vô giá trị, như vậy chỉ có lòng ham muốn của chính ta là đáng kể. Sade đi đến chỗ điên cuồng gào thét giết người để thực hiện tự do.

Ðể chống với tín điều trinh bạch (chasteté) của Ki Tô Giáo, Sade cổ vũ sự cuồng phóng lòng dục. Ảnh hưởng của Sade ngày nay rất lớn đối với phong trào Hippies hay người hoa (flower people) đang bành trướng . Hippies ngày nay không chống Thượng Ðế nữa mà chống cái nghẹt thở của xã hội hậu công nghiệp vì hệ thống tổ chức quá chặt.

oOo

Dostoievsky hô lên: Tout est permis (Tha hồ hành động) bởi vì Thượng Ðế bất diệt là láo nên bây giờ con người chính là Thượng Ðế.

Tha hồ hành động mở đầu cho trang sử của chủ nghĩa hư vô cận đại (nihilisme contemporaire).

Chủ nghĩa hư vô chẻ làm hai ngã:

a) Con người làm Thượng Ðế bằng "logique".

b) Con người làm Thượng Ðế bằng ý lực siêu nhân.

Trước hết hãy nói về cố gắng siêu nhân.

Năm 1884 Frederic Nietzsche ra đời. Ông trở thành triết gia danh tiếng với thuyết ý chí quyền lực và siêu nhân. Theo Nietzsche : "Tất cả mọi đam mê đều đưa con người đến một cái gì. Ðam mê có thể tàn phá những kẻ yếu hèn nhưng đam mê lại thêm sức mạnh cho người dũng cảm. Tội lỗi đức hạnh không tạo ra quyền uy hay sa đọa mà chính quyền uy hay sa đọa tạo ra đức hạnh hay tội lỗi. Thượng Ðế chết rồi trên trái đất chỉ còn lại những siêu nhân. Nếu được làm siêu nhân dù trong giây phút thôi tôi cũng cam chịu tất cả". Những điều Nietzsche nói trong tác phẩm ảnh hưởng ghê gớm vào đầu óc thanh niên Ðức. Ảnh hưởng ấy đã biến thành quyền lực vật chất xây dựng thành chế độ Quốc Xã. Lúc chế độ này thua trận, Hitler và Goebbels đều tự tử chết cùng với gia đình. Họ đã thực hiện cái chết đúng như lời Nietzsche nói :

"Ta gửi các ngươi cái chết của ta, cái chết tự nguyện, nó đến với ta bởi ta muốn thế".

CHƯƠNG THỨ HAI

GIÁ TRỊ

Vào cõi Phật dễ,

vào cõi ma khó

NHẤT HƯU THIỀN SƯ

Marx nói: " Các triết gia từ trước đến nay chỉ mới suy nghĩ và diễn dịch cuộc sống qua nhiều lối khác nhau, nhưng điều quan trọng là phải làm thay đổi cuộc sống."

Người ta thấy rất ít người đi tới cùng công việc này.

 

CĂN BẢN CỦA VẤN ÐỀ GIÁ TRỊ

Trí thức là quyền lực.

Với chính trị tính chất quyền lực càng nặng hơn.

Trong chính trị, trí thức chỉ có giá trị khi nào nó có thể biến thành quyền lực vật chất. Giá trị của phần tử trí thức trong chính trị cũng chỉ được thừa nhận theo tiêu chuẩn này.

Chính trị là một sự nghiệp thực tại tàn nhẫn và cam go, vận dụng trí thức để giải quyết bế tắc sinh hoạt xã hội, dọn quang chướng ngại trên đường đi của lịch sử.

Căn bản giá trị của trí thức ở thực tiễn mà đến.

Căn bản giá trị của phần tử trí thức ở đấu tranh mà ra.

 

VAI TRÒ TRÍ THỨC PHẦN TỬ TRONG CÁC BIẾN CỐ LỚN CỦA LỊCH SỬ

Biến cố chính trị thường là kết quả của sự tranh chấp giữa tập đoàn đang nắm chính quyền và những người bên ngoài chính quyền. Tập đoàn tại quyền có hai thành trì bảo vệ:

a- Chính thống gồm những tổ chức và sức mạnh cai trị.

b- Ðạo thống gồm những tổ chức chấn áp tư tưởng dùng tư tưởng đạo thống để bênh vực quyền cai trị hiện hữu.

Tập đoàn bên ngoài chính quyền thì khởi sự bằng phản kháng chống đạo thống rồi vận dụng tư tưởng tổ chức đối kháng với bộ máy thống trị nghĩa là đem trí thức biến thành quyền lực. Như vậy dẫn đầu các biến cố lớn hầu hết là một cuộc nổi loạn siêu hình (révolve métaphysique) nói theo kiểu Camus.

Ðể đánh đổ phần tử trí thức không thể không dựa vào một phần tử trí thức khác. Cuộc nổi loạn này có hai trận tuyến:

1- Tình cảm.

2- Lý trí.

Cả hai đều nhằm mục tiêu hủy diệt uy quyền chính trị của đối phương.

Ở đây phần tử trí thức là những người của từ ngữ (men of words), đi cao hơn bậc nữa họ là những người xây dựng lý thuyết (theoricien).

Ðể gây phong trào quần chúng phẫn nộ không thể không có những nhà thơ, nhà văn như:

Pouchkine, Ryleev, Tchelov, Gorki, Maiakovski. Những hùng biện gia như:

Fitche, Kakhovsky, Netcheev, Trozsky, Vanden Bruch.

Ðể chống lại lý thuyết vương quyền thần thụ của Bossuet, Cách Mạng Pháp không thể không có cuốn Xã Hội Khế Ước của Rousseau và Vạn Pháp Tinh Lý của Montesquieu.

Trước Cách Mạng Pháp, đa số dân chúng Âu Châu đều tin tưởng lời Bossuet nói:

- "Thiếu bàn tay Thượng Ðế thì thế giới này sẽ rơi xuống vực thẳm, thiếu vương quyền thì xã hội này sẽ chìm vào hỗn loạn".

(Que Dieu retire sa main, le monde retombera dans le néant, que l'autorité cesse dans le Royaume tout sera en confusion).

- Phải nhìn cho rõ để thấy bàn tay Thượng Ðế trong lịch sử nhân loại ở bất cứ nơi nào, tất cả những biến chuyển lớn lao của lịch sử đều tuân thủ các nguyên tắc thần học bao la khắp mọi nơi.

(Il fallait donc faire voir dans les différentes époques de l'histoire humaine dans la main de Dieu, il fallait que les grands faits de l'histoire se pliassent à une interpretation universelle et théologique).

Muốn làm mờ Bossuet, Cách Mạng Pháp cần có cái tri thức lớn lao của Montesquieu. Do hiểu biết bao la của ông, ông đã chứng minh cho mọi người thấy rõ lý luận thần học của Bossuet đã lỗi thời rồi. Trong cái thế giới chính trị ngày càng thêm phức tạp, biết bao nhân vật, biết bao xung đột, biết bao quyền lợi riêng tư đối chọi nhau, làm sao tìm thấy bàn tay Thượng Ðế. Nhịp điệu thế giới biến chuyển theo với thủ đoạn,với mưu cơ của thực tế chính trị. Hàng trăm ngàn đầu dây mối rợ khó lòng mà nhìn nhận ra một nguyên tắc chỉ đạo như một mẫu số chung thì đương nhiên không thể đem chính trị thu hẹp vào nguyên tắc tê liệt của thần học. Chân trời lịch sử mở rộng, thế giới không còn là của Rome hay Jerusalem nữa. Á Châu, Phi Châu, Mỹ Châu đang đòi địa vị lịch sử của họ và dĩ nhiên không thể buộc họ vào sứ mạng Ki Tô. Vũ trụ không còn thu hẹp trong lối suy diễn thần học, nó đang tràn ngập và phá vỡ con đê lý thuyết Bossuet.

INTELLIGENTZIA

Tiền phong của cách mạng 1917 là những hoạt động trí thức. Từ những phong trào này sản sinh ra danh từ Intelligentzia (khoảng cuối thế kỷ 19)

Theo Nicolas Berdiaev thì người Tây phương đã nhận xét lầm Intelligentzia coi giống hệt Intellectuel. Thực ra nó rất khác biệt. Ðây không hẳn là một tổ chức nhưng nó cũng không buông thả ai muốn làm gì thì làm như trí thức Âu Châu. Intelligentzia ở Nga sống gần như một tôn giáo nhỏ với giáo điều tập quán phong tục và hình dáng bề ngoài riêng biệt và có cùng một quan niệm vũ trụ nhân sinh. Ðó là một tập thể sống theo lý tưởng không phân biệt nghề nghiệp giàu nghèo. Mới đầu họ là tầng lớp học thức rồi lan đến các công tử quí tộc, sau xuống các tiểu công chức, tiểu thương đôi lúc còn thấy cả nông dân nữa. Sơ khai vì không thể trực tiếp hoạt động chính trị, họ gói chính trị vào hoạt động văn học. Lâu dần các buổi hội đều là sự tụ tập để phê phán chính trị. Tinh thần của họ là tinh thần Raskol (tên tắt nhân vật tiểu thuyết của Dostoievky, một sinh viên cấp tiến đã giết mụ cầm đồ cay nghiệt tượng trưng cho thể chế bất công bấy giờ). Tinh thần Raskol là tinh thần cuồng tín.

Thái độ táo bạo đầu tiên của Intelligentzia là tước bỏ hết các quyền tôn giáo đối với họ. Raditchev đưa ra phương châm : Tâm hồn tôi bây giờ hướng về đau khổ của con người. Radichev tìm mọi cách để truyền bá tư tưởng Rousseau, Diderot, Voltaire. Tư tưởng của Cách Mạng Pháp vào Nga phá vỡ đức tin cổ truyền. Pestel viết cuốn Vérité Russe, một trong những đà móng của chủ nghĩa xã hội tại Nga.

Tinh thần Raskol cuồng nhiệt hơn sau việc chính quyền treo cổ những người cầm đầu vụ tháng 12 (les décembriste) là vụ nổi loạn mưu sát Nicolas 1er. Trong số người bị treo cổ có hai thi sĩ danh tiếng : Ryleev và Pestel.

Các phần tử trí thức Intelligentzia thề nguyện một mất một còn với chính quyền thống trị đương thời, họ chân thành nghe theo tiếng gọi của thi sĩ Releev:

Không thể có thỏa hiệp nào

Giữa bầy nô lệ với bạo chúa

Chúng ta hãy viết ngay những trang sử máu

và vung gươm tiến bước.

Khắp dân gian những bản viết tay, in thạch lời cuối cùng của Kakhovsky người cầm đầu vụ Tháng 12, được truyền cho nhau đọc:

" Số tôi đã định đoạt. Tôi không than van thản nhiên nhận bản cáo trạng. Sống hay chết với tôi gần như chẳng có gì đáng kể. Tôi không muống nói đến tôi nhưng tôi muốn nói đến tổ quốc của tôi, nếu ngày nào tim tôi còn đập thì tổ quốc mãi mãi là điều linh thiêng nhất. Tổ chức hội kín của chúng ta đã bị khám phá. Chúng tôi chống lại Ngài (chỉ Nicolas) với mục đích duy nhất là tiêu diệt bằng được cái gia đình đang ngự trị dù phải tắm trong máu để xây dựng một chính quyền nhân dân. Tôi say sưa trong tình yêu Tổ quốc, trong tình yêu Tự Do. Với tôi không có gì gọi là tội lỗi khi đấu tranh".

Và hình ảnh những bộ mặt thản nhiên bước lên dàn treo cổ đã thành những hình ảnh đẹp nhất. Trên ngôn ngữ hàng ngày, trên các sáng tác văn học chính quyền được mệnh danh là chúng nó đối lại với chúng ta là Intelligentzia. Cái gì chúng nó tin thì chúng ta phải phỉ nhổ, cái gì chúng nó cho là giá trị thì chúng ta khinh rẻ. Tất cả đều tập trung vào sự giải phóng con người trên thế gian, giải phóng thợ thuyền tạo điều kiện sinh hoạt mới, tiêu hủy hết thẩy thành kiến, mộ đạo, mê tín, lệ luật trói buộc và thứ nhất là thứ tư tưởng "trên trời", thứ tư tưởng làm cho nô lệ, thứ tư tưởng đánh cắp hạnh phúc nhân loại.

Ðà cuồng tín lên cao, để cung ứng cho cuồng tín có một đường hướng khỏi rơi vào vực sâu yếm thế lãng mạn Netchaev sáng tác cuốn : Kinh Bổn Cách Mạng (Cathechisme Révolutionaire) ấn định một tinh thần mới :

" Chỉ biết cách mạng, cách mạng thay thế Thượng Ðế. Lấy luật lệ cách mạng làm nguyên tác sống, lấy sức mạnh sắt thép hoạt động. Người cách mạng không còn tình cảm, quyền lợi, công việc, liên hệ riêng tư nữa. "

" Cái xã hội khốn nạn này phải phân chia ra làm nhiều loại: loại thứ nhất là bọn phải đem hành hình ngay, trước hết là những kẻ nguy hại trực tiếp cho tổ chức cách mạng. Bằng lối giết chóc tàn nhẫn luôn luôn rình rập chúng ta có thể làm lung lay chánh quyền thống trị bằng cách tiêu hủy những tay sai khôn giỏi của nó ".

Hưởng ứng lời khuyên của Netchaev là hàng loạt vụ khủng bố khắp nơi, nhiều nhân vật cao cấp chính quyền và tay sai từ thành thị đến thôn quê bị giết (ngược lại tổ chức cách mạng cũng bị chính quyền sát hại khá đông).

Khủng bố biến chất trở nên bừa bãi, thường vì lý do cá nhân thù hận khiến cho mọi người mất tin tưởng và chán ghét. Khủng bố làm cho cách mạng gần thành người mất trí. Nhìn thấy nguy cơ này, A. D. Mikhailov viết một số bài luận về ý nghĩa của tổ chức và kỹ thuật hoạt động bí mật. Theo Mikhailov thì:

"Làm việc vô tổ chức là lãng phí sức mạnh"

"Kỷ luật, phương pháp tự chế, làm việc đều đặn, chu đáo đúng giờ giấc đó là những đức tính mới rất cần cho người cách mạng trong giai đoạn hiện thời".

"Tất cả mưu đồ chính trị đều phải loại bỏ được mọi bất ngờ may rủi mới có thể thành tựu. Phải tổ chức, tất cả bí quyết thành công ở đấy".

Tư tưởng Mikhailov tạo nên nhiều vụ làm chấn động tâm lý toàn quốc, nhất là vụ theo đuổi giết vua Alexandre Ðệ Nhị. Bị nhiều lần chết hụt, Alexandre phải trốn chạy, tăng cường canh gác xa lánh xung quanh, nghi ngờ đồn ăn thức uống. Dân gian thích thú truyền khẩu nhau: Alexandre ra lệnh như một vị bạo chúa nhưng run rẽ như một tên nô lệ. Tư tưởng Mikhailov có ảnh hưởng lớn, nhưng không đi ra ngoài phương pháp và hoạt động khủng bố. Cách mạng vẫn nguyên vẹn là những âm mưu tụ tập ít người nhỏ hẹp cho đến khi một chuyện quan trọng xảy tới. Ngày 9 tháng 1 năm 1905 dưới sự lãnh đạo của cha Gapone, chừng hơn trăm ngàn thợ thuyền từ Saint Petersbourg biểu tình tiến về lâu đài Mùa Ðông. Họ không mang khí giới, họ nắm tay nhau hát bài : Xin Thượng Ðế phù hộ cho Tsar. Cha Gapone đưa lời thỉnh cầu lên Tsar Hoàng:

"Chúng tôi không đòi hỏi chi nhiều. Chúng tôi chỉ xin được làm việc 8 giờ một ngày, xin tăng tiền công hàng ngày lên một đồng rúp. Xin hãy cứu dân chúng và hãy phá bỏ hàng rào ngăn cách giữa dân chúng với Ngài."

Tsar Hoàng rời bỏ Saint Petersbourg, quyền hành trao trọn vào ít tướng lãng, giám đốc công an và Quận Công Vladimir. Quân đội hạ lệnh bắn, đám người biểu tình ngã xuống như sung rụng. Tổng kết có 500 người chết, 3000 người bị thương, đàn bà con trẻ la liệt trên đất, máu đổ nhuộm hồng màu tuyết.

Tại Genève trong căn gác tối, Lenine nhận được tin và nhìn qua biến cố này ông nhìn thấy một trời ánh sáng hy vọng cách mạng đã tràn vào quảng đại quần chúng. Ông nghĩ lòng hăng say và căm hận đã nổi dậy trên khắp nước, nếu còn thiếu gì chỉ là thiếu lý luận đấu tranh, kỹ thuật đấu tranh. Lenine tự cho mình có bổn phận cung ứng những thứ đó. Thế là hàng loạt văn phẩm do Lenine viết thành hình, chúng đã giúp cho cuộc đấu tranh rết nhiều. Cùng lúc ấy một bộ óc khác cần thiết cho Cách Mạng Tháng Mười và đã đóng góp nhiều công lao là bộ óc của Leon Bronstein tức Trosky cũng hoạt động dữ dội.

Malapart khi nhận địn về Lenine có viết câu này:

"Lenine était survenu pour donner une logique au peuple Russe"

(Lenine hiện ra, đem cho dân tộc Nga cách luận lý.)

Câu ấy thật không có chi quá đáng.

 

VŨ KHÍ SẮC BÉN CỦA TRÍ THỨC PHẦN TỬ.

Bất cứ vận đông chính trị nào, bất cứ phong trào quần chúng nào cũng đều khởi sự bằng một thiểu số quyết tâm chiến đấu và bất cứ cuộc khởi sự nào cũng bắt đầu bằng các hoạt động phá hoại uy tín đối phương, kẻ thống trị sẽ bị mất lòng tin tưởng (l'ordre existant est tombé en discret). Ngược lại nếu chính quyền không quét sạch sức mạnh kẻ phản kháng để buộc phải vâng lệnh mình cứ để tình trạng phá hoại uy tín lan rộng là thua.

Sự mất uy tín hay uy quyền chính trị không hẳn do ở những hành động sai lầm hoặc những quá lạm của kẻ cầm quyền mà bởi sự phê phán sắc nhọn của đối phương, của những người có khả năng hiệu triệu đặt vấn đề quá lạm và sai lầm ấy để vạch vòi ra hình ảnh thối rữa và bất lực. Nếu không có những phê phán nguy hiểm ấy thì kẻ thống trị dù quá lạm gấp đôi, sai lầm gấp đôi cũng không bao giờ tự nó sụp đổ cả. Bởi lẽ ấy Tào Tháo mới nhìn thấy cái nguy hiểm của Dương Tu, Tháo giết Dương Tu là nhận ra cái tài phê phán tinh tường của Dương Tu. Chỉ có Tu là biết đến lòng đến ruột của ông, giết Dương Tu là giết mầm mống ác hại.

"Công việc tiền phong để đánh phá những thể chế thống trị, để quần chúng muốn đổi thay, để quần chúng chấp nhận một tin tưởng mới là công việc của những nhà văn, những nhà hùng biện tài giỏi, có danh tiếng".

(Le travail préliminaire tendant à saper les institutions existantes, à familiariser les masses avec l'idée du changement et à créer en faveur de la nouvelle Foi un état de receptivité ne peut être accompli que par les hommes qui sont d'abord et avant tout, des orateurs ou des écrivains et qui sont reconnus comme cela par tout le monde).

Eric Hoffer viết tiếp :

"Và những người cuồng tín (người hành động) chỉ nhẩy vào cuộc chiếm giữ chính quyền khi nào trật tự, uy quyền cũ đã bị bất tín nhiệm, đã khôn g được quần chúng nghe theo nữa."

(Les fanatiques ne peuvent entrer en scène et prendre le pouvoir que si l'ordre

existant est tombé endiscredit et a perdu l'audience des masses).

Do tính chất nguy hiểm của phê phán mà trên chính trị có vấn đề tư tưởng và khống chế tư tưởng. Vấn đề này bao giờ cũng trái ngược như trắng với đen, giữa thực tế và ước mong. Ai cũng ước mong tự do tư tưởng nhưng khi ngồi vào thực tế chính quyền là thi hành khống chế tư tưởng. Thậm chí ngay cả trên tư tưởng cũng mang nặng chủ trương khống chế tư tưởng nữa.

Khổng Tử nói:

" Nếu đạo của ta không được thực hành ta sẽ chèo thuyềndạo chơi ngoài biển, có Tử Lộ cùng đi với ta".

Thật là một phong độ phóng khoáng vĩ đại, nhưng đồng thời nó cũng chỉ là một phong độ mong ước lý tưởng thôi. Thật thế, ngay các đồ đệ trực tiếp thụ huấn Khổng Tử như Tử Hạ, Tử Trương đã nghĩ khác rồi.

Tử Hạ nói : "Có thể thì ta chơi với, không thể thì ta cự tuyệt" .

Tử Trương : " Khác với ta, ta lấy thái độ quân tử dung chúng. Không dung người thì không phải kẻ hiền. Người cứ việc cự lại ta, ta có gì mà phải chống với người đâu ".

Ðến như ông Mạnh Tử thì cái chuyện khống chế tư tưởng tăng lên cao nhiều lắm. Ông mắng Trần Trọng Tử là con dun, sỉ vả Hứa Hành là cái lưỡi con vẹt miền Nam, công kích phái Dương, Mặc là súc sinh.

Lénine và tập đoàn của ông đã mang sinh mạng mình vào cuộc đấu tranh cho giai cấp vô sản thoát ách độc đoán của chế độ Tsar Hoàng, nhưng khi nắm được chính quyền rồi ông dồn tất cả tâm lực vào việc xây dựng chế độ vô sản chuyên chính (dictature du prolétariat).

 

Lénine và tập đoàn của ông cũng đã từng rất say sưa với những bài thơ trong sáng Tự Do của Pouchkine và Ryleev nhưng khi thực sự bước vào cách mạng mỗi lần đề cập đến hai chữ Tự Do ông thường nói : "Ở chỗ nào có Tự Do thì chỗ ấy không thể có nhà nước".

Lúc chế độc Cộng Sản đã thiết lập ở Nga, một nhà báo Ý sang Nga hỏi Lounatcharsky Ủy Viên Giáo Dục rằng : Những người Bôn-Sê-Vích sẽ đối đãi ra sao với loại người như nhân vật Candide của Voltaire hay loại người thấm nhuần tư tưởng Niezstche?

Lounatcharsky thản nhiên đáp:

"Chúng tôi sẽ không để bọn đó sinh sôi nẩy nở."

Câu trả lời đó cho thấy Lounatcharsky thực thụ là một "léniniste".

Mấy chục năm trước Cách Mạng Tháng 10, Pouchkine, Gogol, Ogarinoff, Bielinski v.v... cùng chung sức xây kiến thiết cho nước Nga một tinh thần tự do. Gió Cách Mạng Pháp thổi tới. Tinh thần Tự Do nẩy nở trong lòng mỗi người để trở thành quan niệm tôn thờ Tự Do cá nhân. Lénine nhận thấy với tinh thần ấy cuộc cách mạng C.S. Nga không thể nào thành tựu được. Lénine cho rằng : những ảo tưởng nhân đạo, lý tưởng dân chủ, chủ nghĩa ái quốc lãng mạn, những ước vọng tự do của người "décembriste" không đủ khả năng chống trả với tổ chức đàn áp cách mạng, cho nên ông chối bỏ, ông xây dựng một quan niệm cách mạng khác. Lénine không hứa với dân chúng Nga hai chữ Tự Do mà kêu gọi trả thù và hòa bình. Với đám nông dân Lénine không hứa Tự Do mà sui dục rửa hận và ruộng đất. Với thợ thuyền ông không hứa Tự Do mà gào thét báo óan nắm chính quyền. Ông nhìn rõ chân tướng tình cảm lê thê và lý trí rụt rè của phần tử trí thức lúc đó. Ðã có lần

Lénine nói với Kamenev :

" Ðồng chí tin người ta có thể làm cách mạng mà không xử bắn ai hết sao?"

Ðể biện hộ cho việc ông đã nghĩ đúng đều cần thiết cho lịch sử, một lần ông thổ lộ với nhà văn Maxime Gorki:

" Sự độc ác tàn nhẫn của tôi sau này mọi người sẽ hiểu và tha thứ."

 

BA MẶT CỦA PHÊ PHÁN.

Phê phán một thể chế thống trị có ba mặt :

- Phê phán tinh thần, đạo đức. (critique morale)

- Phê phán chuyên môn, kỹ thuật (critique technique)

- Phê phán ý hệ hay phê phán lịch sử (critique historique ou idéologique)

Phê phán tinh thần đạo đức là chống lại những bất công, những sa đọa, những bế tắc trong quan hệ người với người như nhà viết kịch vĩ đại Ibsen ngụ ý trong các vở kịch của ông. Ông nhìn xã hội Norvège bấy giờ như một xã hội gồm toàn con người "nhân thân thú diện" (kịch "When the dead awaken"), trai ăn cắp gái làm đĩ. Gia đình người Norvège đầy bệnh hoạn, tự tư, tự lợi, ỷ lại, nô lệ, giả đạo đức (kịch "La maison des poupée"). Ở các vở kịch khác ông mở cuộc tổng công kích vào ba thế lực lớn nhất là pháp luật, tôn giáo, đạo đức. Với pháp luật ông vạch vòi sự gian lận của nó, tình cảm chết cứng độc ác bất cố nhân tình của nó, pháp luật là sự lừa đảo những người cô thế. Với tôn giáo, Ibsen chế riễu nó qua nhân vật Rosmersholm, vị linh mục bỏ đạo chạy theo thế lực vật chất. Mất hết lòng tin Chúa, linh mục gia nhập đảng Tự Do nhưng đảng lại buộc linh mục không được từ bỏ chức vụ tôn giáo, công tác của ông là hãy lợi dụng tôn giáo lôi kéo mê hoặc giáo dân làm lợi cho đảng. Với đạo đức, Ibsen chua sót đưa vào vở kịch "L'ennemi du peuple" một người bị cả xã hội xua đuổi nhân danh đạo đức, dân chúng vì áp lực và gian tạo của cường quyền mà sôi nổi phỉ báng kẻ vì mình mà tranh đấu. Bằng vở kịch "Wild duck" ông nhìn nhận rằng những phần tử anh hùng của xã hội không còn nữa, chúng bây giờ đã được nuôi béo vỗ về nên bằng lòng cái kiếp chim lồng cá chậu, mà quên hẳn sông hồ mây trời.

Thời kỳ Tưởng Giới Thạch cai quản Trung Quốc có rất nhiều vở kịch được nhiệt liệt hưởng ứng chĩa mũi dùi phê phán cuộc sống khốn khổ dưới chế độ Tưởng đáng kể như:

- Lôi Vũ của Tào Ngu phơi bầy tội ác của gia đình phong kiến, tình trạng ngột ngạt khó thở của cái sinh hoại áp bức lừa dối.

- Nhật Xuất của Tào Ngu nói lên hy vọng của một ngày mai đẹp đẽ sau cái chết âm thầm của cô gái nhẩy đáng thương Bạch Lộ.

- Hồng Thủy của Ðiền Hán lấy cảnh lụt mà diễn tả nỗi ai oán của một gia đình nông dân. Ðói khổ ông lão đã lừa lúc con dâu và cháu ngủ để tự trầm dành phần cơm manh áo cho cháu.

- Vãn Yến của Viên Mục Chi kêu gọi nổi dậy đấu tranh nếu không thì chỉ là tăm tối, ngục tù, chết chóc.

oOo

Phê phán lịch sử hay ý hệ là xét lại toàn bộ xã hội hiện đại để đặt định một xã hội tương lai, phong kiến, trung cổ giáo quyền được thay thế bằng dân chủ tam quyền dân lập, tự do bình đẳng v. v...

Những tác phẩm lớn thuộc loại phê phán này có thể lược kể như sau;

- Quân Vương (Le Prince) của Machiavel.

- Sáu tập luận về nền cộng hòa của Jean Bodin.

- Leviathan của Thomas Hobbes.

- Triết học chính trị rút tỉa từ Thánh Thư của Bossue.

- Khảo Luận Về Chính Quyền Dân Sự của John Locke.

- Vạn Pháp Tinh Lý của Montesquieu.

- Xã Hội Công Ước của Jean Jacques Rousseau.

- Lực Lượng Bình Dân của Sieyès.

- Diễn Văn Tập Về Quốc Gia Ðức của Fichte.

- Nền Dân Chủ Tại Mỹ của Roqueville.

- Tuyên Ngôn Của Ðảng Cộng Sản của Karl Marx.

- Ðiều Tra Chế Ðộ Dân Chủ của Charles Maurras.

- Cảm Nghĩ Về Bạo Lực của Georges Sorel.

- Nhà Nước Và Cách Mạng của Lénine.

- Mein Kampf của Adolf Hitler.

oOo

Phê phán kỹ thuật là chỉ trích những chính sách, những biện pháp của chế độ vì bất lực, vì không thích nghi nên tạo ra sự lệch lạc, hỗn độn, tổn phí nguy hiểm.

Phê phán thuộc loại này thường thấy trên báo chí, trong các cuộc hội họp, hoặc ghi lên bảng qua hình thức biểu ngữ v.v... Giá trị của phê phán chỉ có thể tạo nên sức mạnh khi nó thu thập được sự hưởng ứng và đồng tình, mỗi ý kiến mỗi tư tưởng nêu ra là đều có những "môn sinh" quy tụ, hay làm xúc động tâm lý số đông. Tào Ngu lúc nào cũng chú trọng vào pháp bảo " phải làm cho khán giả phổ thông bị hấp dẫn". Quần chúng chính trị chẳng có gì khác quần chúng kịch trường, người viết kịch cũng như người phê phán chính trị đều phải nhìn nhận quần chúng là sinh mệnh của chính trị cũng như quần chúng là sinh mệnh của kịch trường.

SÁNG TẠO VÀ GIÁO DỤC.

Không phải chỉ có sáng tạo là quan trọng.

Giáo dục cũng quan trọng không kém.

Phần tử trí thức được phân công hai nhiệm vụ đó. Alfred Sauvy viết :

" Có hai loại tài năng, một gieo giống một để cho sinh nở".

(Il y a deux sortes de génies l'un qui avant tout engendrer et veut engendrer, l'autre qui aime à se laisser féconder et qui enfante.)

Giáo dục là sự môi giới giữa quần chúng với lịch sử, giữa quần chúng với tiến bộ, giữa quần chúng với trật tự. Thất bại trên giáo dục tức là thất bại toàn bộ. Chính với giáo không tách rời nhau cũng như cách mạng và huấn luyện phải gắn liền.

Nếu ta đặt câu hỏi : Lịch sử xây dựng bởi trí thức phầntử \?

Trong phạm vi cục bộ thì lịch sử xây dựng bởi anh hùng hào kiệt, nhưng trên toàn chỉnh thì lịch sử được xây dựng bởi phần tử trí thức. Sinh hoạt là kế tục thích ứng muốn thích ứng với hoàn cảnh mới tất phải điều chỉnh nội bộ và ngoại bộ, nhiệm vụ điều chỉnh nằm trong tay giáo dục nghĩa là nằm trong tay phần tử trí thức. Lãnh đạo quyền là gì? Là chỉ sự nắm vững nguyên lý giáo dục. Hỗn loạn và lạc hậu bao giờ cũng là miếng đất tốt cho ác thế lực và hèn yếu nẩy nở. Kẻ vô sỉ làm quan to không đáng sợ bằng kẻ vô sỉ đi giảng dậy học vấn. Thời kỳ tối tăm nhất lịch sử thẩy đều là thời kỳ giáo dục phá sản, lịch sử chỉ lại sáng sủa khi giáo dục khởi sắc. Cái cảnh tưng bừng phấn khởi, dưới những gốc đa, những tàn muỗm, ở làng Quang, làng Mọc, làng Bưởi, các ông già bà cả, các thanh niên trai gái chăm chú nghe lời giảng của các vị sáng lập ra Ðông Kinh Nghĩa Thục chính là dấu hiệu cho hy vọng quật khởi vậy.

 

CHƯƠNG THỨ BA

THÂN PHẬN

Chính bởi cái bản chất nhã quí mà phần tử trí thức khi dấn thân vào thực tế tàn nhẫn thường bị gạt ra ngoài để mang cái hình hài thất bại. Hình hài của Phan Ðình Phùng trước bộ mặt vô sỉ của Hoàng Cao Khải, hình hài của Antonio Mella trước vẻ đắc thắng của tên độc tài Machado (Cuba), hình hài của Maiakovsky trước tiếng cười ngạo nghễ của loại Prissypkine, hình hài bần hàn trước thái độ huyênh hoang của bọn bạo lợi.

 

HAI CHIỀU THÂN PHẬN

Nói đến thân phận phần tử trí thức cần xét trên hai chiều của thân phận.

1) Thân phận cái tôi riêng lẻ.

2) Thân phận liên quan đến giai cấp.

Thân vô thái phương phong phi dực,

Tâm hữu linh tê nhất điểm thông.

Thân phận cái tôi riêng lẻcủa phần tử trí thức bắt đầu bằng con người lý tưởng, vì con người lý tưởng đó mà phần tử trí thức thường bất lực trong cuộc đấu tranh thực tế, tâm chất linh thôn g nhưng lại không có đôi cánh của con phượng hoàng đấy chính là bi kịch của thân phận trí thức.

Tối cao lý tưởng chính trị phương Ðông về vấn đề trị bình thiên hạ là làm sao cho mỗi người đều thành thánh nhân. Thánh nhân chỉ là một điển hình một phạm trù chung cho mọi người. Chính trị không thiên lệch về phía ứng phó với hiện thực, mà chính trị là công cụ lý tưởng để hoàn thành văn hóa nhân sinh. Nếu đem chính trị thoát ly toàn thể con người, đem chính trị vì tâm chất lý tưởng quá hoả biến thành không tưởng, phần tử tríthức không mang vào chính trị cái lạc thú chính trịmà chỉ mang vào cái lạc thú nhân sinh, cho nên phần tử trí thức đối với chính trị vẫn hằng có cái lầm của Ðường Tam Tạng.

Ðường Tam Tạng phải dực vào Tôn Hành Giả cũng như nhân loại cần phải được chính trị bảo vệ. Tôn Hành Giả quay quắt có 72 phép biến hình. Nhờ Tôn Hành Giả nên Ðường Tăng mới qua khỏi nhiều nguy nan mang kinh về. Chính trị biến hóa vô lường có thần thôn quảng đại mới đối chọi với bọn Ngưu Ma Vương ở Hỏa Viêm Sơn, cự địch với quạt ba tiêu của Thiêt Phiến Công Chúa. Ðường Tăng chẳng lúc nào không cần thiết có Tôn Hành Giả, cũng như nhân loại không thể thiếu chính trị dù phút chốc. Ðường Tăng cũng biết vậy, nhưng do lý tưởng thúc đẩy Ðường Tăng đã có lần đuổi Tôn Hành Giả đi. Lần ấy là lần Tôn Hành Giả dùng phép quật chết Bạch Cốt Phu Nhân, Ðường Tăng chỉ trông bề ngoài tốt đẹp của Bạch Cốt Phu Nhân mà không biết là con tinh đội lốt nên cho rằng Tôn Hành Giả làm một côn g việc táng thiên hại lý nên nhất định vất bỏ Tôn Hành Giả. Ðến khi Ðường Tăng đi vào khu rừng tùng đen bị quái Hoàng Bào vây hãm không làm sao ra thoát, vô kế Ðường Tăng phải cho mời Tôn Hành Giả.

Tâm chất lý tưởng và không tưởng khiến cho phần tử trí thức dễ tuyệt vọng với hiện thực chính trị. Cái chết của thi sĩ Vladimir Maiakovsky là một điển hình. Maiakovsky thuộc thế hệ tiền phong của Cách Mạng Tháng 10.

Vì cầm đầu vụ bãi công, Maiakovsky bị đuổi ra khỏi trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật rồi bị tù. Ðược gội rữa bởi nhà giam, thơ Maiakovsky sáng lên với giọng điệu công phá chế độ đưa chàng trở thành nhà thơ cách mạng.

Cách mạng thành công, trong dân chúng lưu truyền rộng rãi câu thơ :

Với tất cả sức lực của thơ,

Ta xin hiến dâng

Cho giai cấp nổi lên mà reo hò tấn công

Nhưng cũng chính Maiakovsky là người đầu tiên tuyệt vọng với chế độ mới. Bởi Maiakovsky trong sạch quá nên chàng không thể chịu đựng nổi sự đau lòng khi trông thấy các chiến sĩ Cộng Sản đang tìm cách tư sản hóa, sự ngộp thở của bộ máy quan liêu đỏ. Chế độ mới không chấp nhận thiên tài dù cho thiên tài ấy đã từng là kẻ dẫn đầu xây dựng chế độ.

Ngày 14 tháng 4 năm 1930, Maiakovsky vừa tròn 36 tuổi lấy súng tự bắn vào đầu, trước đấy ba năm là nhà văn Essinine chết tương tự.

Tại sao các chiến sĩ xã hội, chiến sĩ Cộng Sản cùng lúc lại là bọn côn đồ bóc lột, thích tư hữu. Càng nặng với chủ nghĩa xã hội bao nhiêu lại càng ham vơ vét bấy nhiêụ Tại sao thế?

Ðó là câu hỏi mà Dostoievsky nêu ra, bây giờ nó như nhát búa đập suốt ngày đêm trong đầu óc nhà thơ trẻ tuổi. Ðâu đâu Maiakovsky nhìn thấy bộ mặt tên Prissipkine (nhân vật kịch đại biểu cho người cán bộ Cộng Sản ham giầu sang trong vở "Lũ Rệp" của Maiakovsky). Bây giờ chàng mới hiểu : Chủ nghĩa, lý thuyết, lý tưởng Cộng Sản là một chuyện nhưng đảng Cộng Sản với cái guồng máy quan liêu nặng áp bức lại là chuyện khác. Người ta chỉ có thể là Cộng Sản thuần túy và từ giã đảng để rồi rơi vào tình trạng cô đơn bất lực.

Maiakovsky buồn nản nhận xét nôn g dân thợ thuyền vẫn rách rưới trong khi các chiến sĩ Cộng Sản đầy quyền uy đi trong xe hơi lộng lẫy, ở tại các lâu đài của Tsar Hoàng.

Cái chết của Maiakovsky là một thảm kịch chính trị. Mặc dầu nhà đương cục tung tin Maiakovsky tự sát vì bị khủng hoảng tinh thần ông sợ mình đã cạn nguồn sáng tạo, chẳng ai tin.

Không đừng được, Staline phải lên tiếng:

"Maiakovsky mãi mãi là nhà thơ vĩ đại tài ba của kỷ nguyên Sô Viết chúng ta".

Tâm chất lý tưởng và không tưởng biến người trí thức thành Abélard bị thực tế hay thực quyền hoạn thiến.

Abélard giáo sư đầu tiên có những tư tưởng cấp tiến của thời Trung Cổ Pháp, ông dậy thần học ở nhà thờ Ðức Mẹ Paris và ở đây ông sáng lập chủ nghĩa Duy Danh (Nominalisme), ông được nhiều thanh niên Âu Châu tán thưởng. Lúc ấy (1116) quyền tu viện còn mạnh lắm, Giáo Hội không mấy ưa tư tưởng của Abélard.

Héloise vừa mười chín tuổi, nàng mới tốt nghiệp trường nhà dòng và ở với chú là Fulbert quí tộc phong kiến. Héloise đẹp lắm lại nổi tiếng trí thức.

Abélard vận động đến dậy Héloise về môn triết. Hai người yêu nhau. Xã hội thế lực phản đối cuộc tình này. Abélard và Héloise bất chấp, họ cùng nhau bỏ trốn sự nghiệp bỏ trốn gia đình. Họ muốn tìm tự do trong tình yêu. Họ muốn chứng minh tình yêu không phải là kết quả của trái cấm của quỷ cám dỗ. Một đêm kia, Abélard đang nằm ngủ, bỗng số đông người ập tới đè cứng Abélard mà thiến. Ðau khổ Héloise xin vào tu viện còn Abélard bị kẻ thù săn đuổi cho đến phút cuối cùng. Thượng Ðế nhất quyết trừng tội cả hai.

Tâm chất lý tưởng và không tưởng đẩy phần tử trí thức vào tình trạng một kẻ lưu đầy, họ lạc lõng trong cuộc đời thực tế bao vây bởi ngàn vạn phi lý như các nhân vật của Albert Camus (L'exil et son Royaume, L'Étranger) họ là những con thuyền say giữa cuộc đời.

Hình dáng người trí thức đã được các nhà văn lớn miêu tả như Trofimov trong vở kịch Vườn Anh Ðào, Antoine Tchekov, mảnh khảnh, đôi mắt buồn rười rượi, mắc bệnh lao nên không kể nóng rét lúc nào cũng có chiếc khăn quàng quấn cổ, thể xác yếu ớt nhưng tinh thần lại tràn đầy sức sống.

- Như Pierre trong tiểu thuyết Chiến Tranh và Hòa Bình (Leon Tolstoi) đại lượng, suy tư tha thiết không thể gần gũi với xã hội quí tộc thối nát.

- Như Mychkine trong tiểu thuyết "Kẻ Ðần Ngu" trong sạch và ngơ ngác trước những bẩn thỉu của đời.

Ðôi khi những "con thuyền say đó" trở thành cuồng sĩ thầy đồ ngông, hoặc họ tự nhận chìm mình trong thú vui ma túy.

NGŨ ÐỘC THƯ

Nếu ai đã từng nghiên cứu về khoa tướng số đều phải biết câu này:

Nhất mệnh

Nhị vận

Tam phong thủy

Tứ âm công

Ngũ độc thư

Người đọc sách hay là phần tử trí thức đã rớt xuống hàng thứ năm không phải là hàng thứ nhất như các nhà trí thức vẫn lầm tưởng đâu. Người đọc sách rớt xuống hàng thứ năm nghĩa là đọc sách có giỏi vẫn thua thằng số tốt, vận tốt, mồ mả tốt và âm đức tốt.

Trên thực tế điều này rất đúng nhưng theo khoa học xã hội người ta có thể giải thích hiện tượng ấy mà không căn cứ vào số tốt, mồ mả tốt, và âm đức tốt. Từ trước tớ'i nay đa số thường nhận lầm phần tử ưu tú (élite) với phần tử trí thức (intellectuel) là một. Dĩ nhiên phần tử trí thức là phần tử ưu tú mà phần tử ưu tú không hề là phần tử trí thức. Nêu không quan niệm được rõ rệt sư khác biệt giữa ưu tú và trí thức rất khó lòng nhận biết tường tận thân phận trí thức.

Danh từ ưu tú để dịch chữ élite ở đây không được chỉnh cho lắm nên cần phải nói thêm rộng cho rõ nghĩa hơn. Ưu tú trong quan niệm của chúng ta qua thói quen thường kiêm nhiệm cả cái nghĩa phẩm hạnh nữa, còn ưu tú ở đây xin hiểu bằng sự loại bỏ phẩm hạnh rồi thu nó vào nghĩa tài giỏi trên mặt nào đó. Ðọc chuyện Ðông Chu Liệt Quốc hồi Mạnh Thường Quân trốn ra khỏi cửa ải Hàm Cốc, lúc đó trời chưa sáng mà quân thù nghịch thì đã duổi đến nơi. Mạnh Thường Quân lo lắng nhìn các mưu sĩ xung quanh mình xem có kế gì thoát khỏi chăng? Các vị trí thức mưu thần ngơ ngác hỏi nhau, rút cuộc ai cũng chịu bó tay. Bỗng có hai người tiến lên nói mỗi người có một sở trường đặc biệt khả dĩ cứu cơn nguy nan này, một người biết bắt chước tiếng gà gáy và một người biết chui rậu rất giỏi. Mạnh Thường Quân y kế cho hai người chui ra ngoài cửa ải cất tiếng gà gáy, gà các nơi thi nhau gáy theo, quân sĩ canh gác tưởng đã sáng rồi mở các cửa ải, Mạnh Thường Quân thoát. Ðời sau gọi chuyện ấy là chuyện "Kê minh cẩu đậu" ý chỉ những người tài vặt.

Sự so sánh tuy không chải chuốt lắm vì nó hãy còn quá thiếu sót, nhưng nó cũng giúp ít nhiều hình tượng để nhận thức danh từ ưu tú (élite) ở đây. Sau đây là những định lý mà một nhà xã hội học Ý đưa ra để làm tiêu chuẩn phân biệt đối với phần tử ưu tú, Paréto tuy có luận điệu khinh bạc nhưng rất đúg sự thật. Ông viết:

Bây giờ hãy đưa ra một giả thuyết là phê điểm về khả năng của mỗi cá nhân trong từng ngành hoạt động xã hội như ta phê điểm bài vở học sinh.

Tỉ dụ : môt luật sư nổi tiếng đông thân chủ phê 10 điểm, con số "không " thì dành cho kẻ hoàn toàn ngu (les idiots).

- Người kiếm nhiều tiền bạc (lương thiện hay bất lương không thành vấn đề) phê 10 điểm. Người kiếm chừng vài trăm ngàn phê 6 điểm và người chỉ kiếm đủ hai tay vầy lỗ miệng cực nhọc phê một điểm, số không dành cho kẻ ăn xin.

- Tên lưu manh chuyên sống nghề lừa đảo mà chưa lần nào mắc kẹt bị bỏ tù, phê 8 hoặc 9 điểm, tùy theo con mồi nó đã săn được và số tiền kiếm được. Tên ăn cướp vặt dăm bẩy trăm rồi rơi vào tay cảnh sát phê 1 điểm.

- Một nhà thơ được xưng tụng như Musset phê 8 hay 9 điểm và phê cho kẻ làm thơ con cóc 1 điểm.

- Các "bà lớn" kiểu Alphasie de Peridès, Maintenon (de Louis 14), Pompadour (de Louis 15) đã từng dùng tình nhân quyền thế để tạo địa vị làm mưa làm gió cho mình phê 8 hay 9 điểm. Còn các bà được Vua yêu, chúa dấu một thời rồi bỏ rơi chẳng được hưởng chút tăm tiếng lợi lộc phê 0 điểm.

..........

(.........)

..........

Hai vị bác sĩ, một vị giỏi xoay hành nghề bơm mông bơm vú kiếm gấp mười lần vị bác sĩ lọc cọc cho đơn thuốc hàng ngày. Anh chàng bác sĩ bơm vú bơm mông là loại ưu tú của giới bác sĩ.

Những người mà Paréto phê nhiều điểm nhất đa số thuộc hai loại :

a) Quỷ quyệt (chuyên rình rập cơ hội đoạt quyền đoạt lợi bất cần gia đình tổ quốc, tôn giáo nhưng lại rất giỏi về môn lợi dụng các lý tưởng đó. Bọn này sống quay quắt không sợ thay đổi, hỗn loạn vì họ luôn luôn đủ sức phụ họa với thời thế mới\).

b) Táo bạo (chuyên xông xáo, phiêu lưu làm đã rồi mới nghĩ tỉ dụ kẻ đi tìm vàng tìm mỏ dầu ở miền Tây Hoa Kỳ, bọn lính đánh thuê ở Katanga.)

Trong mọi cuộc đấu tranh, phần tử trí thức và phần tử ưu tú cùng đứng hàng tiền phong, nhưng rồi dần dần phần tử trí thức bị đẩy lui để mang cái hình hài thất bại.

Phần tử trí thức mải mê với chân thiện mỹ nên đã trở thành kẻ lưu đầy trong cuộc sống, họ thiếu những gì cần thiết để sống trong xứ ma.

Phần tử trí thức đa số là loại người thiên hướng về lý tưởng, mặc dầu họ không phải không nhìn thấy thực tế, nhưng nhìn để mà chốt bỏ, để mong bắt nó vào lý tưởng cho nên họ rất yếu khi đối diện với sự phũ phàng của thực tế.

Ðó cũng là một điều giải thích cái thói quen nếu phải nhận giữa Hitler và Thomas Mann ai là trí thức thì người ta nghĩ ngay Mann, giữa Kroutchev và Pasternak thì Pasternak, giữa Henry Ford và Scott Fritzerald thì Frizerald mặc dầu chẳng ai nghĩ rằng Ford, Hitler và Kroutchev là bọn vô trí thức. Trotzky nhổ bọt và tay Staline khi Staline chìa tay ra chào đó là lý tưởng muốn biểu lộ sự khinh khi cái tàn nhẫn của thực tế. Trotzky bịStaline đánh bại bỏ nước ra đi đó là điều chứng minh thất bại của mẫu người trí thức khi đối trọi với mẫu người hành động.

THAY BẬC ÐỔI NGÔI

Mỗi biến động xã hội, biến động lịch sử đều có sự lưu hành của các phần tử ưu tú (circulation des élites). Ca dao ta có câu:

Trời làm một trận lăng nhăng,

Ông xuống làm thằng, thằng lại lên ông.

Hai kẻ tiền phong ưu tú và trí thức mỗi kẻ đóng vai trò quan trọng ngang nhau, kẻ nói người làm, người nghĩ kẻ thực hiện họ sát vai bên nhau chiến đấu chống kẻ thù chung.

Ðình Trưởng Lưu Bang và tập đoàn giang hồ phong bái đứng bên trí thức Trương Lương, Tiêu Hà, Tào Tham.

Bảo tiêu Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi liên kết với Khổn g Minh, Phượng Sồ, Từ Thứ.

Con người lão luyện Tào Tháo kết tập với Quách Gia, Giả Hủ, Tuân Úc.

Hồng Tú Toàn có Tiền Giang làm phò tá.

Trên Lương Sơn Bạc có ông tú Ngô Dụng.

Lưu Bang mà không có Trương Lương, Tiêu Hà chắc chắn khó lập thành cơ nghiệp Hán. Trương Lương, Tiêu Hà khôn g phò Lưu Bang chắc chắn suốt đời chỉ là thư sinh bất mãn.

Khổng Minh không có Lưu Bị tất quanh năm nằm co thôn dã, Lưu Bị thiếu Khổn g Minh thì chẳng bao giờ làm vua đất Thục.

Sát cánh như thế, nhưng khi sắp lại ngôi thứ quyền bính, phần tử trí thức bao giờ cũng đứng thụt xuống. Lưu Bị tuy ba lần gội tuyết đạp mưa chầu chực nơi ngôi nhà lá của Gia Cát Lượng, gặp lúc Gia Cát đang ngủ phải chắp tay đứng chờ, rốt cuộc khi cùng nhau lo việc nước thì Lưu Bị là vua còn Khổng Minh là bầy tôi.

Trí thức đứng thụt xuống là vì là vì trí thức hay so đo cho nên kém dũng khí, theo Từ Lượng Chi thì đấy cũng là cái lý do tại sao ở lịch sử Trung Quốc phần tử trí thức chỉ làm đến tể tướng thôi mà lưu manh nhiều lúc lên ngôi hoàng đế.

Trường hợp trí thức kết hợp với hành động trên một con người như Lenine, Mao Trạch Ðông, Mustapha Kemal, Tào Tháo rất hiếm vả lại dù có thế thì cái địa vị tột đỉnh của họ vẫn do con người hành động mà ra. Trong quá trình diễn biến từ trí thức sang quyền lực để thực hiện kẻ làm đã hơn thưng người nghĩ.

Geothe nói : "Nghĩ thì dễ, làm mới khó, làm được những điều mình nghĩ lại càng khó hơn". Phần tử trí thức có một nhược điểm lớn là muốn tính trước tất cả nhưng rồi không tính trước được tất cả nên trù trừ không dám hành động. Nhược điểm này tạo thành ngôi vị thứ năm của người đọc sách vậy.

BỊ NGƯỢC ÐÃI VÀ ÐỔ SÁT

Tô Ðông Pha nhiều lần bị giáng chức và bị lưu đầy vì chống không lại với tập đoàn chính trị Vương An Thạch, ông chán chường với thân phận trí thức bằng bài thơ sau đây:

Nhân gia dưỡng tử yêu thông minh.

Ngã bi thông minh ngộ nhất sinh.

Ðản nguyện sinh nhi ngu thả lỗ.

Vô tai vô nạn đáo công khanh.

Nghĩa là:

Người ta nuôi con, mong con thông minh.

Như ta đây thì thông minh chính là một điều lầm to cho đời ta.

Ta chỉ mong sinh ra đứa con vừa ngu vừa lỗ mãng.

Như vập nó vẫn có thể làm quan to mà không bị tai nạn khốn khổ.

Sứ mạng của trí thức là đi tìm chân lý và phê phán. (L'intellectuel a mission de chercher la vérité et de juger). Chính vì phải thực hiện sứ mạng này mà phần tử trí thức bị bạc đãi và đổ sát.

Chính vì mang sứ mạng này mà phần tử trí thức đã bắt với một loại thói quen là thường xuyên đối lập.

Phê phán tất đụng chạm, kẻ ngồi tại quyền dù ở lãnh vực nào cũng thế rất không hài lòng và với chỉ trích và phê phán bao giờ. Họ sẵn sàng nếu có cơ hội hoăc sẽ cố tạo ra cơ hội để tiêu diệt phê phán. Kẻ ở tại quyền thù hận phê phán phần tử trí thức như thế nào? Hãy đọc những lời của Barrès:

" Không có gì đáng ghét bằng lũ trí thức nửa mùa tự nhận làm những tay quí tộc tư tưởng, tự cho ta khác xa với đám quần chúng tanh hôi... Bọn ấy đúng là rơm rác mà xã hội đang cố gắng tạo thành tinh hoa. Những thiên tài thiếu tháng, những tâm hồn bị đầu độc đáng cho ta thương như lũ heo, người ta đưa về viện Pasteur để thử thuốc điên rồ. Ðương nhiên người ta phải hạ chúng không thì cũng giam nhốt chúng."

Trung Quốc có danh từ "văn tự ngục" để chỉ sự việc vì văn chương mà bị giam cầm. Văn tự ngục là thân phận trí thức thời phong kiến, văn nhân tham dự hoạt động chính trị, các chính trị gia dã tâm một mặt triệt để lợi dụng họ, mặt khác lại triệt để ghét bỏ họ. Tần Thủy Hoàng định thiên hạ xong, liền thi hành chính sách đốt sách chôn nho. Lấy cớ là bọn nho sĩ thường đem cái xưa cũ ra để chống chế bài bác cái mới mẻ. Lưu Bang bỉ thị phần tử trí thức, ông thường nói : "Trẫm được thiên hạ trên lưng ngựa việc gì trẫm phải quý trọng bọn đọc sách làm thơ." Minh Thái Tổ còn ghét phần tử trí thức hơn nữa, ông lo ngại văn nhân dùng văn chương lưu truyền những vụ phản bội của ông, cùng gốc gác hòa thượng của ông. Chỉ một chút nghi ngờ thôi, ông đem bỏ ngục liền.

Phê phán của phần tử trí thức nguy hiểm và khó chịu như nọc độc của con bọ cạp. Lấy một tỉ dụ kể sau đây: Nước Tống có một người tên Tào Thương, vua phái y đến nước Tần, y đi với vẻ mặt muông phần đắc ý. Tào Thương giỏi nịnh hót lắm cho nên đến nước Tần, Tần Vương cấp cho ba bốn cỗ xe. Tào Thương vênh vác gặp ai cũng khoe, có lần y đến chơi ông Trang Tử nói bốc giời "mới năm trước đây tôi sống hết sức cơ cực dệt dép cỏ sinh nhai, mặt võ vàng tiều tụy, ở nơi ngõ hẹp mà bây giờ khác hẳn, trong phút chốc được vua một nước lớn thưởng thức cho hàng trăm cỗ xe, thiết tưởng con người đắc ý chỉ đến thế là cùng".

Trang Tử cười nói:

Tôi nghe vua Tần có bệnh trĩ, mời thầy đến chữa thầy nào chữa khá thì cho cỗ xe, nếu tận tâm hơn lấy lưỡi mà liếm chỗ trĩ thì cho đến năm cỗ lận, như tiên sinh vua Tần ban tới trăm cỗ xe chắc cũng đã liếm trĩ nhiều lần lắm nhỉ.

Tào Thương xấu hổ mặt đỏ nhừ. Trang Tử nói nhỏ : "Thôi tiên sinh, tôi xin tiên sinh khoác lác ít chứ." Thứ nọc độc phê phán ấy gây thành thù hận giữa phần tử trí thức với kẻ đương quyền. Thù hận mặc, phê phán vẫn cứ phê phán, người trí thức thà chịu đổ sát ngược đãi chứ không chịu thiên hạ ngó lơ mình. Chân Hành Tẩu đã làm Cao Bá Quát bực dọc, ông tự coi như bị thờ ơ lãnh đạm nên bằng hai câu phê phán thi đàn của Tự Ðức:

Ngán thay cái mũi vô duyên.

Câu thơ Thi Xã con thuyền Nghệ An.

để buộc thiên hạ chú ý đến mình. Cũng từ đó cái họa chu diệt nhà họ Cao nẩy mầm.

Người trí thức thà chịu ngược đãi chứ không chịu không nói lên sự thật. Milovan Djilas dù đã ở ngôi vị phó chủ tịch nhà nước (Nam Tư) ông vẫn viết cuốn Giai Cấp Mới để vào ngồi trong tù.

Ðối với kẻ cầm quyền Djilas và Cao Bá Quát đáng hận ngang nhau.

 

SÁT LONG CHI BỐI

Sách Trang Tử chép:

Có người tên là Chu Bình Man chí lớn lắm muốn học điều gì khác thiên hạ, tìm kiếm mấy năm mới tìm ra ông thầy tên là Chi Ly Ích rất giỏi về khoa giết rồng. Chu Bình Man mừng quá, đến bái tôn làm tôn sư.

Chi Ly Ích đem tất cả bí quyết giết rồng dậy Chu Bình Man. Người họ Chu cũng cực chăm chỉ học, ông bán hết gia nghiệp quyết thành tài chẳng ngại tổn phí.

Thành tài rồi, gặp ai họ Chu cũng nói về cách giết rồng, mổ rồng, cắt tiết, móc mắt lọc xương rồng thế nào. Khốn nỗi chưa ai trông thấy rồng bao giờ nên mọi người chỉ cười. Chu Bình Man vẫn hứa hẹn sẽ có một ngày giết rồng cho bà con xem để mà khâm phục tuyệt kỹ duy nhất trên đời. Nhưng ngày đó chẳng bao giờ tới với người họ Chu.

Ða số phần tử trí thức cũng chịu thân phận giết rồng của Chu Bình Man mà ôm tài năng lạc lõng bơ vơ giữa cuộc đời, cuối cùng đem nó vào hòm chôn xuống dất. Là phần tử trí thức với nhiệm vụ hiểu trước biết trước, họ phải đi ra ngoài những tầm thường để tự đứng vào cái thế thiểu số (je suis de ces intellectuels pour qui le rôle est d'être dans la minorité _ Drieu La Rochelle). Karl Marl là một người giết rồng vĩ đại, cuốn Tuyên Ngôn Của Chủ Nghĩa C.S. thời đó thực là mội kỹ thuật giết rồng tuyệt diệu. Lạc lõng bơ vơ, người trí thức đau khổ vì bất lực không thay đổi được thực tại, nhưng thực ra ảnh hưởng của nó rất lớn. Nhiều chính khách đã từng là học trò của các vị giáo sư, đã chịu ảnh hưởng của các văn phẩm. J.F. Kennedy luôn luôn nhắc đến Harold Laski. Rất nhiều điều giảng dạy ở đại học đã được đem áp dụng vào hành chính. Chủ nghĩa kinh tế "Keynessienne" từng bị chê bỏ năm 1935 nhưng đến năm 1955 nó lại là kinh điển cho tư bản mới, là khuôn vàng thước ngọc của các nhà lãnh đạo Tây phương. Rồng không mấy khi hiện ra cho con người có thuật giết nó được tỏ tài năng.

 

THÂN PHẬN GIAI CẤP

Trí thức phần tử thuộc giai cấp tiểu tư sản đó là một sự thật. Hồ Thu Nguyên viết: đại đa số phần tử trí thức có thể nói là ở giai cấp tiểu tư sản vì lẽ kẻ phú quí không đọc sách, người nghèo khổ không có phương tiện đọc sách, cho nên người đọc sách hầu hết xuất thân từ những gia đình "tiểu khang".

Jean Kanapa viết: Nguồn gốc xã hội của phần tử trí thức bây giờ một phần là tư sản nhưng đại đa số thuộc về giai cấp trung sản, tất cả những phân tích về trí thức phải khởi từ điểm này.

Sự thật ấy đưa lên chính trị, Cộng Sản nhận định trí thức tiểu tư sản như là một trọng tội vì tâm lý hay giao động, dễ phản bội và không vững lập trường giai cấp. Trong khi phát xít và chủ nghĩa Mac Carthisme đối đãi với phần tử trí thức bằng chủ trương : Hoặc ngươi phải làm tay sai cho ta, hoặc ta cho ngươi vào tù, ta đốt hết sách của ngươi. (Ou vous serez mes agents ou je vous jette en prison et brule vos livres).

Phần tử trí thức trên phương diện giai cấp đã có một đời sống đầy mâu thuẫn thù nghịch từ mọi phía. Còn sự thật nữa mà không ai có thể phủ nhận là chính đáng những phần tử thuộc giai cấp tiểu tư sản ấy đã là tiền phong của Cách Mạng Tháng Mười, ai dám nói Lenine, Trotzky không phải là trí thức tiểu tư sản? Cũng lại chính những phần tử tiểu tư sản ấy đã là những rường cột bảo vệ cho thống trị tư sản, ai dám chối bỏ thân phận trí thức của Hitler của Mussolini?

Phần tử trí thức thuộc giai cấp tiểu tư sản đó là một sự thật, nhưng thù nghịch đối với phần tử trí thức lại bắt nguồn từ từ một sự thật khác : đó là mâu thuẫn thường xuyên giữa kẻ thống trị và kẻ bị trị, người tại quyền, người tại dã kẻ ở trong chính quyền và kẻ ở ngoài chính quyền; ở đấy trí thức lúc nào cũng là quyền lực đáng sợ nếu nó lãnh đạo được phía bị trị nổi lên. Ðổ lỗi lên đầu phần tử trí thức mục đích tạo nên tâm lý tự ti và ý thức phạm tội để biến họ làm công cụ cho quyền thống trị. Nếu đem so sánh chủ trương của Phát Xít : "Hoặc nhà ngươi làm tay sai cho ta, hoặc ta cho ngươi vào tù." Với chủ trương của Lénine:

"Văn học phải là văn học của Ðảng. Ðả đảo bọn văn học vô đảng, đảo đả những siêu nhân của văn học".

(La littérature doit devenir une littérature de parti. À bas les littératures sans parti, à bas les surhommes de la littérature).

Người ta thấy nó chẳng khác nhau bao nhiêu.

Cả hai đều làm công việc cần thiết lúc nào cũng thấy trên chính trị đó là hoạt động "định ư nhất" (uniformity) bằng cách khống chế tư tưởng, bằng cách đào tạo một đội ngũ trí thức mới.

Quan hệ của phần tử trí thức và chính quyền trong chính trị

Có hai loại:

a/ Quan hệ bình thường là hợp tác,

b/ Quan hệ biến thái là mâu thuẫn.

Chính quyền với phần tử trí thức hợp tác tất quốc gia hưng thịnh, ổn định.

Chính quyền với phần tử trí thức mâu thuẫn tất quốc gia suy vong, bạc nhược (nhu yếu một cuộc cách mạng)

Khi người đọc sách tuyệt vọng với tình thế là lúc đất nước khởi sự phục hưng.

Trên đại thể lịch sử, phần tử trí thức bao giờ cũng là đại biểu của quảng đại quần chúng với nhiệm vụ kháng độc, bảo vệ an định. Những quan kiện lớn lao của chính trị quá nửa do phần tử trí thức gánh vác.

Nếu người đọc sách còn giữ được hoạt lực và trí tuệ thì gốc nước không lay chuyển.

Nếu người dọc sách lãnh đạo điều hòa giỏ hiện thực thì quốc thể cường thịnh.

Nếu người đọc sách còn tự tín đoàn kết nhất trí thì dù cho văn hóa có suy kiết vẫn hy vọng cứu vãn.

Có bốn tình hình nguy hiểm như sau:

a) Chính quyền nhục bách trí thức, giam cầm trí thức làm cho lực lượng trí thức còi cọp.

b) Chính quyền hủ bại khiến cho chính bản thân trí thức cũng hủ bại hay phân hóa chân giả.

c) Ðội ngũ trí thức cũ tan rã, trí thức mới chưa thành đdội ngũ.

d) Chính quyền hoàn toàn không được phần tử trí thức hợp tác.

 

WITHDRAW AND RETURN

Là một quy luật lịch sử do nhà sử học Toynbee xướng xuất, nghĩa là thoái ẩn và trùng lai. Lịch sử như nước thủy triều dâng rồi rút xuống. Rút xuống do thoái lạc của chính quyền hủ bại, dâng lên do lực lượng mới nổi dậy kết quả phấn đấu của phần tử trí thức.

Cuộc phấn đấu nổi dậy (trùng lai) này hiện trên ba mặt vận động:

1) Ngay tại trung ương có những vị trung liệt, tuẫn đạo.

2) Tại dân gian giáo dân hóa tục gìn giữ sinh mệnh văn hóa quốc gia.

3) Tổ chức chủ lực phục hưng đề xướng phương hướng mới, học vấn mới, tinh thần mới.