Chế Ðộ Phát Xít
Tác giả: Tiến Sĩ Jeliu Jeliev
Dịch giả: Phạm Văn Viêm
(tiếp theo)
Phần
II: Những chức năng đặc biệt của nhà nước độc tài phát xít
1. Do thám tổng thể
Ðể có thể hiểu được do đâu dẫn đến
"do thám tổng thể" trong những điều kiện của nhà nước phát xít, chúng
ta cần xem xét lại cấu trúc độc tài của nó. Như một xã hội "được tổ
chức", nhà nước độc tài thâu tóm tất cả mọi thành viên của mình theo nghề
nghiệp, giới tính hay tuổi tác vào những tổ chức quần chúng. Hệ thống tổ chức
quần chúng khổng lồ này đồng thời vừa là công cụ để kiểm soát xã hội, vừa để
nhồi nhét tư tưởng phát xít cho xã hội. Nhưng ở đây ẩn giấu một mặt trái của
vấn đề: Trong những điều kiện nhất định, hệ thống tổ chức quần chúng này có khả
năng quay lại chống nhà nước. Ðiều này đúng cho mọi tổ chức. Bởi vì một khi đã
được xây dựng, tổ chức là hình thức có thể thực hiện những ý đồ chống nhà nước
với sức mạnh được tổ chức sẵn, nếu vị trí lãnh đạo của nó rơi vào tay những
người mang trong mình tư tưởng đối lập.
Lãnh đạo một tổ chức quốc gia và
chờ thời cơ, để dùng nó chống lại chế độ sẽ hiệu quả hơn nhiều, so với việc xây
dựng một tổ chức chống đối công khai. Bởi vì tổ chức chống đối công khai ít có
khả năng thành công hơn do sự khủng bố gắt gao của lực lượng cảnh sát.
Vì lý do này, những người hoạt
động bí mật có kinh nghiệm, làm việc trong những điều kiện của nền chuyên chính
phát xít, không chống lại nhà nước một cách công khai, mà ẩn giấu trong một tổ
chức nào đó. Ở đó những người này tiếp xúc với quần chúng, chiếm được lòng tin
của họ và trở thành lãnh đạo của tổ chức này. Ðạt được điều đó, tổ chức quốc
gia không chỉ che chở cho những người như thế, mà còn trở thành công cụ cho
công tác bí mật của họ .
Nói cách khác, tổ chức quần chúng
lúc này đã thay đổi ý đồ chính trị . Sự thay đổi đó càng nguy hiểm hơn cho nhà
nước, nếu đây là tổ chức được vũ trang đầy đủ như quân đội hay những bộ phận
của quân đội.
Ðể chống lại những hành động chống
đối nhà nước công khai như bãi công, biểu tình... chính quyền phát xít có những
công cụ hữu hiệu: khủng bố cảnh sát và trại tập trung cải huấn. Nhưng để chống
lại những ý đồ bí mật, cảnh sát không còn giữ được vai trò hiệu quả như thế nữa.
Rõ ràng cảnh sát khó có thể phân biệt được ai bí mật chống lại nhà nước và ai
trung thành với nhà nước.
Từ đây dẫn đến sự cần thiết phải
có thứ vũ khí mới để bảo vệ chế độ chính trị, và cụ thể đó là do thám. Nhưng
đây không phải kiểu do thám truyền thống mà cảnh sát vẫn sử dụng thông qua bọn
mật vụ, mà là do thám quần chúng, do thám tổng thể . Chỉ nhờ kiểu do thám này,
nhà nước mới biết được tất cả những sự kiện xảy ra ở mọi nơi, mọi thời điểm,
phát hiện nhanh chóngvà hủy diệt kịp thời những mưu đồ chống đối.
Rudolf Hex đã xây dựng thành những
nguyên tắc cơ bản của do thám tổng thể như sau:
"- Ai cũng có thể trở thành
do thám.
- Ai cũng phải trở thành do thám.
- Không có bí mật nào, mà không
thể thăm dò."(102-117)
Trên thực tế, do thám tổng thể có
nghĩa là: con cái do thám bố mẹ, sau đó báo với cảnh sát, học sinh theo dõi
thầy giáo, binh lính - các cấp chỉ huy, thành viên những tổ chức quần chúng -
cán bộ lãnh đạọ.. và ngược lại. Gia đình, trường học, cơ sở nghiên cứu khoa
học, công sở, quân đội, tổ chức quần chúng, câu lạc bộ thể thao, trong đảng và
thậm chí cả cảnh sát - đều là những hiện trường do thám quan trọng. Nhà nước
cần phải biết nguyện vọng và ý định của tất cả mọi người. Không có bí mật nào
mà nhà nước không quan tâm.
Trong bối cảnh đó, không còn ranh
giới giữa kẻ do thám và người bị do thám. Tất cả đều đồng thời là do thám và bị
do thám. Do thám tổng thể trở thành do thám lẫn nhau.
Nhà nước phát xít khuyến khích
kiểu do thám này, xem đó như dấu hiệu cơ bản cho sự tin tưởng chính trị . Kẻ
nào tố cáo được nhiều với cảnh sát sẽ được tin tưởng và có ưu thế hơn để thăng
cấp trong bộ máy đảng và nhà nước.
Một ưu điểm khác của do thám tổng
thể là mặc dù mức độ rất rộng lớn, kiểu do thám này kinh tế hơn rất nhiều cách
do thám cảnh sát thuần túy. Nhà nước không cần thành lập những tổ chức do thám
đặc biệt, mà sử dụng ngay các tổ chức quần chúng sẵn có, các công sở ... cho
mục đích này. Những người làm việc trong mọi tổ chức đều đồng thời là do thám,
nhà nước không cần trả thêm lương. Bản chất đặc biệt của nhà nước phát xít, với
việc không tồn tại của các xu hướng chính trị đối lập, diễn đàn tự dọ.. cho
phép nó có thể làm được điều đó.
2. Tuyên truyền trắng trợn.
Trong nhà nước độc tài, diễn đàn,
đài phát thanh, phim ảnh, nhà hát, văn học, các tổ chức quần chúng... đều bị
đặt dưới sự thống trị toàn diện của nhà nước; mặt khác do không tồn tại xu
hướng chính trị đối lập, cho phép nhà nước này thực hiện một kiểu tuyên truyền
độc đoán. Tuyên truyền không tránh khỏi trở thành chủ soái tuyệt đối của nhà
nước, đưa tin tức và phân tích các sự kiện theo một chiều duy nhất. Thông qua
cưỡng ép một cách hệ thống, tuyên truyền mê hoặc quần chúng và kết hợp với sự
khủng bố, làm nên những điều kỳ dị . Tuyên truyền có thể tạo nên một "sự
thật thứ hai", và mặc dù đó chỉ là ảo tưởng và nằm trong khuôn khổ những
lời hứa hão. "Sự thật" này được quần chúng công nhận là thực sự, còn
sự thật thực sự thì bị xem như không thực và vô nghĩa. Bằng cách nhồi nhét kiên
trì, liên tục và duy nhất một thứ tư tưởng, tuyêntruyền biến tư tưởng này thành
huyền thoại trước mắt nhân dân, dù không có cơ sở. Không phải ngẫu nhiên mà tại
Ðại Hội Ðảng ở Niurnberg năm 1936, Gobelx đã nêu khẩu hiệu:
"Tuyên truyền đã giúp chúng
ta giành được chính quyền.
Tuyên truyền sẽ giúp chúng ta giữ
vững chính quyền.
Tuyên truyền sẽ giúp chúng ta
chiến thắng toàn thế giới."(90-153)
Trước đó 10 năm trong Cuộc Chiến
Ðấu Của Tôi, Hitler đã giành vị trí đặc biệt cho công tác tuyên truyền:
"Bằng cách tuyên truyền kiên trì và liên tục, ta có thể khiến một dân tộc
xem thiên đường là địa ngục và ngược lại, một cuộc sống cơ cực nhất thành thiên
đường." (90-257)
Nhưng điều đó chỉ có thể thực hiện
được trong nhà nước độc tài, nơi mà phản tuyên truyền và thông tin khách quan
hoàn toàn không thể có. Trong nền dân chủ tự do truyền thống, tuyên truyền của
nhà nước (và không phải là duy nhất) không thể có được sức mạnh ghê gớm như
vậy, vì nếu nó có ý định "khiến một dân tộc xem thiên đường là địa ngục và
một cuộc sống cơ cực nhất thành thiên đường", thì ngay lập tức sẽ bị diễn
đàn đối lập vạch mặt.
Tại đây, diễn đàn đối lập đứng ra
đại diện và bảo vệ quyền lợi cho xã hội một cách khách quan, đại diện cho
nguyện vọng xã hội, và trong nền dân chủ tư sản, những nguyện vọng này thường
không trùng hợp với nguyện vọng của nhà nước.
Trong chế độ độc tài phát xít,
điều này hoàn toàn không thể xảy rạ ở đây, nhà nước cũng đồng thời là đại diện
cho nhân dân, xã hội, quê hương, dân tộc, tiến bộ, công bằng... không có sự
khác nhau giữa nguyện vọng của nhà nước và xã hội, vì không tồn tại nguyện vọng
xã hội công khai.
Do có quyền thống trị, nguyện vọng
nhà nước trở thành nguyện vọng xã hội, còn nguyện vọng thực sự của xã hội thì không
được phép thể hiện công khai, mà chỉ lan truyền kín đáo, thông qua những câu
chuyện tiếu lâm chính trị, những lời đồn đại...
Chúng ta có thể lấy những trích
dẫn minh họa cho kết luận trên trong hồ sơ của tòa án Niurnberg:
"Do kiểm soát chặt chẽ diễn
đàn, đài phát thanh... từ năm 1933, nhân dân Ðức đã bị ảnh hưởng nặng nề của
tuyên truyền quốc xã; và không chỉ công kích thù địch, mà bất kỳ công kích nào
cũng đều bị cấm đoán. Quyền tự chủ và tư duy tự do hoàn toàn không thể
có," và, "Chính phủ quốc xã có ý định thống nhất nhân dân theo đường
lối chính trị của mình bằng cách sử dụng tuyên truyền cưỡng ép. ở Ðức có hàng
loạt phóng viên được tuyển chọn với nhiệm vụ kiểm soát và gây ảnh hưởng đối với
diễn đàn, đài phát thanh, phim ảnh, nhà xuất bản... mọi thú vui, nghệ thuật và
văn hóa. Tất cả những phóng viên này phục tùng Bộ Tuyên Truyền Và Giáo Dục Nhân
Dân, đứng đầu là Golbelx; kết hợp với tổ chức tương ứng trong Ðảng Công Nhân
Quốc Xã và Ban Văn Hóa Quốc Gia, chịu trách nhiệm sự kiểm soát này...
Rozenberg, với danh nghĩa đại diện
cho đảng quốc xã, giữ vai trò lãnh đạo công tác tuyên truyền học thuyết quốc
xã, còn... Fritre cùng Gobelx thực hiện nhiệm vụ tương tự dưới danh nghĩa các
tổ chức nhà nước."(90-322)
Ở đây cần nhấn mạnh một tình tiết,
mà mới thoạt nhìn có vẻ như không mấy quan trọng là, Ủy Ban Văn Hóa Tối Cao bao
gồm bảy ban, thâu tóm toàn bộ cuộc sống tinh thần xã hội - phim ảnh, nhà hát,
hội họa, điêu khắc, kiến trúc, nhạc thơ, khoa học... - nằm dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Bộ Tuyên Truyền.
Tất nhiên điều đó chưa thể nêu bật
được bức tranh toàn cảnh của tuyên truyền tổng thể . Tính chất tổng thể của
tuyên truyền được thể hiện rõ ràng hơn trong bộ máy về công tác này, rằng mọi
tổ chức và công sở đều bắt buộc phải tham gia tuyên truyền. Ngoài các cơ quan
tuyên truyền đặc biệt - Bộ Tuyên Truyền, các cơ
sở ấn loát, diễn đàn, đài phát
thanh - tuyên truyền còn được tiến hành bởi bộ máy đảng và nhà nước, các tổ
chức quần chúng, các hiệp hội phụ nữ, trí thức... Tuyên truyền độc đoán được
thực hiện thông qua mọi tổ chức, công sở và trở thành tuyên truyền tổng thể,
còn các tổ chức quần chúng và công sở bị biến thành công cụ của nó.
Tương tự như "do thám tổng
thể", nhà nước không cần thành lập bộ máy tuyên truyền đặc biệt, mà sử
dụng ngay những tổ chức và công sở quốc gia vào mục đích này. Mọi tổ chức, hiệp
hội, cơ sở nghiên cứu... ngoài công việc chính đều phải tham gia công tác tuyên
truyền và "do thám tổng thể" .
Những nguyên tắc cơ bản đặc biệt
của tuyên truyền trong những điều kiện của nhà nước phát xít là:
1. Chỉ thông báo những tin tức có
lợi cho chế độ, giúp chế độ chiếm được lòng tin của xã hội.
2. Những tin tức không có lợi sẽ
gây ảnh hưởng xấu đến chế độ . Thí dụ, diễn đàn thế giới trong nhiều năm đã
viết về các trại tập trung ở Ðức và những tội ác của bọn SS và Zetapo. Chỉ
riêng báo chí và đài phát thanh Ðức là không nói gì đến chuyện này.
Trong nhật ký của mình (1.5.1942),
Gobelx viết: "Tin tức chính trị là vũ khí quân sự . Ý nghĩa của chúng để
thúc đẩy chiến tranh, chứ phải đưa thông tin". (147-210)
3. Nếu cần đưa những tin tức không
có lợi trong trường hợp không thể im lặng, thì những tin tức này đã bị bóp méo,
đến mức khó nhận ra sự thật.
4. Thổi phồng các sự kiện không có
lợi cho dối phương.
5. Tuyên truyền được đặt trước
thông tin, nghĩa là thông báo sự kiện nào đó xuất phát từ ý nghĩa chính trị của
nó.
6. Khi bắt buộc phải tỏ ra khách
quan, phải đưa nhiều thông tin cụ thể hơn, thì tính "khách quan" này bị
biến thành nguyên nhân phụ, để tự phân tích tuyên truyền, như công cụ tìm hiểu
"sự thật" cho quần chúng.
Fritre, người xếp thứ hai sau
Gobelx trong hệ thống tuyên truyền quốc xã từng nói: "...Con người có thể
tuyên truyền bằng mọi phương tiện; có thể nói dối trước sự thật hiển nhiên, đơn
giản là đặt những thực tế ra ngoài bối cảnh tổng quát của chúng và tách đối
tượng ra khỏi nhận thức của họ về
toàn bộ sự thật." (146-270)
Tuy nhiên còn tồn tại một lĩnh vực
mà tuyên truyền độc đoán của nhà nước phát xít không còn giữ được sức mạnh vốn
có, đó là công tác tuyên truyền ở nước ngoài. Tại đây, tuyên truyền của nhà
nước độc tài không còn có thể độc đoán, mà phải cạnh tranh trong cùng những
điều kiện với các đối thủ của mình. Lúc này, tuyên truyền độc tài đứng trước
những khán giả biết suy nghĩ và công kích. Do đó nó phải thay đổi công thức,
phải từ bỏ kiểu cách cảnh sát, đe dọa, từ chối sự giả mạo là không thể sai lầm.
Cùng với những ấn phẩm trong nước, nhiều tờ báo và tạp chí bằng tiếng nước
ngoài được xuất bản...
Nhưng cuối cùng thì trò lừa bịp
này cũng phải bị đổ vỡ, vì nó dựa trên sự lừa dối trắng trợn. Và dầu sao, thế
giới cũng có những nguồn thông tin riêng của mình - đó là các nhà báo và những
phóng viên điện tín, những người không dễ gì có thể bị gạt.
3. Cần thiết phải cách ly đất
nước.
Tuyên truyền độc tài trong nước
trở nên bất lực khi phải cạnh tranh với tuyên truyền nước ngoài. Việc phát minh
ra đài phát thanh trong thế kỷ XX đã làm một cuộc cách mạng thực sự trong lĩnh
vực tuyên truyền: thông tin ngay lập tức được truyền đến với hàng triệu người,
không phụ thuộc vào biên giới và khoảng cách. Nhưng điều này đe dọa quyền độc
đoán của tuyên truyền độc tài và gây khó khăn cho nó trong việc cạnh tranh với
tuyên truyền bằng đài phát thanh của các nước khác.
Trong cùng một điều kiện, tuyên
truyền này có thể thắng tuyên truyền khác chỉ bởi chất lượng, tính chính xác và
khách quan của thông tin được đưa ra. Nhưng về những điểm này, thì tuyên truyền
phát xít rõ ràng là kém cỏi nhất.
Vì tuyên truyền phát xít trở nên
bất lực trước ảnh hưởng của tuyên truyền nước ngoài, do đó nó phải nhờ đến sự
can thiệp của cảnh sát.
Ðể giúp tuyên truyền độc tài, cảnh
sát dùng những biện pháp cách ly như sau:
1. Cố định các máy radio để không
còn bắt được các đài khác ngoài đài phát thanh trong nước, đồng thời trừng phạt
tàn nhẫn những người vi phạm.
2. Thiết lập các hệ thống gây
nhiễu sóng của những đài nước ngoài phát thanh vằng tiếng của nhà nước phát
xít.
3. Kiểm soát nghiêm ngặt những tác
phẩm văn học và báo chí nhập từ nước ngoài vào.
4. Thiêu hủy những tác phẩm văn
học mang tư tưởng tự do dân chủ .
5. Hạn chế đến mức tối thiểu việc
du ngoại của các công dân. Việc đi nước ngoài chỉ giành cho những người tin cẩn
hoặc những người thừa hành công vụ và đều phải thông qua sự kiểm tra của cảnh
sát.
Curt Rix đã viết về vấn đề này ở
Ðức như sau: "... Ðể được cảnh sát đồng ý cho đi nước ngoài, cần phải nêu
rõ: đi đâu, và vì lý do gì; đi đến với ai; có bà con họ hàng gì ở nước ngoài không;
quan điểm chính trị của họ thế nào... Sau khi đến vị trí đã định, ngay lập tức
phải báo với đãi diện sứ quán Ðức gần nhất." (103-43)
Những biện phát trên chứng tỏ, bản
thân tuyên truyền độc tài dựa trên bộ máy đàn áp và khủng bố cảnh sát. Sự thống
trị tuyên truyền trong nước được bộ máy đàn áp đảm bảo; nó hủy diệt tất cả
những ai có ý định đưa thông tin, tuyên truyền.
Sự cộng tác chặt chẽ giữa tuyên
truyền và bộ máy đàn áp trong cuộc đấu tranh chống tuyên truyền nước ngoài,
càng làm rõ thêm mối quan hệ giữa chúng. Tuyên truyền độc đoán không tránh khỏi
chuyển thành cưỡng ép và do thám, đến mức khó mà phân biệt được ranh giới giữa
chúng. "Ngoài khủng bố thể chất, bọn Hitler còn sử dụng cả khủng bố tư
tưởng đối với nhân dân Ðức. Bọn phát xít hủy diệt mọi quyền dân chủ của người
Ðức. Toàn bộ tuyên truyền, văn học, nghệ thuật đều bị đồng hóa. Trong nhiều
năm, hàng triệu người Ðức bị ảnh hưởng nặng nề của tuyên truyền Hitler, bị bưng
bít mọi nguồn thông tin về sự thật và tội ác của chế độ ." (75-20)
Với bản chất phản động và vô nhân
đạo, nhà nước phát xít tự xem mình là trên hết, hủy diệt toàn bộ quyền tự chủ
của mọi cá nhân, cướp đi của họ quyền suy nghĩ và hành động độc lập. Cá nhân
trở thành công cụ của nhà nước. Trong hoàn cảnh đó, đương nhiên các công dân
mong muốn một nền tự do dân chủ hơn là chuyên chính độc tài. Bởi thế, hệ tư
tưởng độc tài rất lo sợ khi phải tiếp xúc và cạnh tranh tự do với tư tưởng tư
sản dân chủ . Hệ tư tưởng độc tài tất yếu sẽ bị tan rã, vì không chịu được áp
lực của hệ tư tưởng tư sản dân chủ, và do đó phải dùng những biện pháp cách ly
thông qua sự giúp đỡ của bộ máy cảnh sát.
Phát xít Ðức, cũng như phát xít
Italia, quảng cáo hệ tư tưởng của mình là cách mạng, tiến bộ và nhân đạo hơn
nhiều lần hệ tư tưởng "cá nhân" và "ích kỷ" của nền dân chủ
tự do truyền thống. Thậm chí trong Học Thuyết Về Chủ Nghĩa Phát Xít, Muxolini
còn nhiều lần nhấn mạnh rằng, hệ tư tưởng phát xít tượng trưng cho tinh thần
thế kỷ XX, là hệ tư tưởng "tập thể", trong khi chủ nghĩa cá nhân là
tư tưởng lỗi thời của thế kỷ XIX.
Thực chất, bản chất phản động của
tư tưởng độc tài nằm ngay trong nỗi lo sợ, khi phải tiếp xúc với tư tưởng tự do
dân chủ; và do đó phải cách ly quần chúng khỏi ảnh hưởng của những tư tưởng
này.
4. Thường xuyên cần thiết mối đe
dọa quân sự từ bên ngoài.
Cần có cách giải thích thỏa đáng,
khi mọi quyền lợi cá nhân bị hy sinh cho nhà nước và việc đàn áp, khủng bố
thường xuyên xảy ra. Từ đó dẫn đến phải có những nguyên nhân bên ngoài không
thể bàn cãi.
Thời gian đầu, nhà nước độc tài
đang phải thanh toán các kẻ thù thực sự nên chưa cần tuyên truyền những nguy
hiểm tưởng tượng. Nhà nước liên tục gây căng thẳng thêm cho sự cuồng tín trong
nhận thức chính trị bằng cách lôi kéo quần chúng chống lại một đối tượng nào
đó. Ở Ðức đối tượng đầu tiên là những người cộng sản, tiếp theo là những nhà
dân chủ xã hội và cán bộ công đoàn, và sau cùng khi mọi đảng phái đã bị tiêu
diệt thì đến lượt người Do Thái. Bằng mọi cách, bọn quốc xã nhồi nhét cho nhân
dân Ðức rằng, những người Do Thái trong nước và trên thế giới đang có âm mưu
chống lại nhân dân Ðức. Mọi nguyên nhân tai họa của dân tộc hay cá nhân từng
công dân Ðức đều được đổ lên đầu người Do Thái. Một chiến dịch tuyên truyền bài
Do Thái toàn diện được tiến hành.
Trong môi trường bị đầu độc này,
giới tiểu tư sản thí dụ như những người bán tạp phẩm, bắt đầu nhìn thấy nguyên
nhân những thất bại của mình trong việc cạnh tranh với các cửa hàng của người
Do Thái; kẻ trí thức không gặp may giải thích những thất bại của mình bằng việc
ganh đua với các đồng nghiệp Do Thái; người bác sĩ nhìn thấy số lượng con bệnh
của mình sẽ tăng lên gấp bội nếu những phòng khám tư nhân của các bác sĩ Do
Thái bị đóng cửa...
Còn gì đẹp hơn là sự cạnh tranh
của những người Do Thái sẽ bị loại bỏ trên danh nghĩa một mục đích xã hội
"cao cả" - giữ gìn trong sạch dòng giống dân tộc, cứu dân tộc khỏi
một kẻ thù số một! Nhưng để mối nguy hiểm này được xem như thật, quần chúng
nhân dân cần được tham gia những cuộc đàn áp người Do Thái. Sự cuồng tín xã hội
không thể căng thẳng thêm chỉ bằng cách dùng tuyên truyền thổi phồng một mối
nguy hiểm tưởng tượng. Cần thiết phải để cho dân chúng tiếp xúc trực tiếp với
mối nguy hiểm này và chuẩn bị một cuộc phản công nghiêm túc chống lại nó. Không
phải ngẫu nhiên mà bọn quốc xã kéo dài việc giải quyết vấn đề người Do Thái
trong suốt thời gian cầm quyền, mặc dù đã có thể hủy diệt hay trục xuất toàn bộ
dân Do Thái ngay từ những năm 1935-1936. Nhà nước độc tài quốc xã luôn luôn cần
có mối nguy hiểm nào đó, để lợi dụng vào đó mà giữ tình trạng chính trị căng
thẳng và liên tục đòi hỏi nhân dân phải hy sinh.
Nhà nước độc tài Tây Ban Nha cũng
sử dụng nguyên tắc này. Mặc dù đã hơn ba mươi năm trôi qua kể từ khi cuộc nội
chiến kết thúc và mọi cái đều đã đổi thay, cho đến phút chót chính quyền vẫn chia
dân chúng thành người thắng, kẻ thua và thổi phồng lòng căm thù giữa họ .
Sau một cuộc nội chiến tàn khốc,
thông thường một nhà nước dân chủ cần phải thi hành những biện pháp làm giảm
dần các mâu thuẫn vì hòa bình dân tộc, bởi ngọn lửa của cuộc nội chiến đe dọa
hủy diệt nhà nước này. Ðối với nhà nước độc tài thì ngược lại, linh hồn của
cuộc nội chiến cần thiết tồn tại. Vì bản thân cấu trúc nhà nước độc tài là
khủng bố và không thể tồn tại nếu không khủng bố, và để khỏi bị tan rã, nhà
nước cần phải tìm đối tượng cho sự khủng bố này (vì một bộ máy khủng bố, mà
không khủng bố thì sẽ bị tan rã).
Khi nào những nguy hiểm bên trong
đã bị mai một, nhà nước phát xít liền dùng đến mối đe dọa bên ngoài. Một nước
láng giềng hay một số nước nào đó, với hệ tư tưởng khác, sẽ bị tuyên bố là mối
đe dọa thực sự . Và để loại bỏ được "mối đe dọa" này, nhà nước phát
xít tăng cường vũ trang quân sự và xiết chặt hơn nữa đời sống chính trị . Những
mối đe dọa trong và ngoài thường được xem là liên quan nhaụ Thông thường mối đe
dọa bên ngoài được sử dụng như nguyên nhân để đàn áp lực lương bên trong nào
đó. Các lực lượng này bị buộc tội là bè lũ gián điệp cho những nước mà nhà nước
phát xít xem là mối đe dọa bên ngoài.
Thí dụ, nước Ðức - Hitler, trong
một thời gian dài tuyên bố "chủ nghĩa Bônsevic" là mối đe dọa bên
ngoài, có nguy cơ tràn ngập Âu Châu và nuốt tươi nước Ðức. Sau khi điều đó đã
được công nhận, dễ dàng có thể tấn công những lực lượng mácxít trong nước (cộng
sản và xã hội dân chủ).
Phát xít Italia nhìn thấy mối đe
dọa bên ngoài là chế độ"tài phiệt" Anh và Pháp. Do đó chúng tiến hành
công kích nền dân chủ tư sản, còn ở trong nước thì mở cuộc tấn công điên cuồng
chống những kẻ tôn thờ "giới tài phiệt phương Tây". Thí dụ vào năm
1938 ở Italia, đã triển khai chiến dịch chống "ảnh hưởng ngoại lai"
và "tác phong tư sản". De Xtefan, một trong những kẻ ủng hộ tích cực
nhất cho chính sách của chế độ phát xít đã viết như sau: "Còn rất nhiều
vấn đề phải xem xét trong lĩnh vực nhập khẩu phi vật chất mà chúng ta thu nhập
được: cách suy nghĩ, cách sống, tác phong ngoại laị.. Chế độ phát xít cần phải
kiểm soát không chỉ riêng vấn đề nhập khẩu hàng hóa, mà cả tư tưởng và cách
sống." (44-112)
Thông qua mối đe dọa bên ngoài,
nhà nước độc tài "bắn một mũi tên trúng hai đích": thứ nhất, gây nỗi
kinh hoàng cho nhân dân, bắt họ phải đoàn kết xung quanh nhà nước; thứ hai, tạo
điều kiện thích hợp để cách ly và tiêu diệt đối thủ chính trị nào đó. Sự thống
nhất nhân dân, trong nhà nước độc tài, được hình thành trên nỗi lo sợ không chỉ
từ bộ máy khủng bố của nó mà còn từ những nguy hiểm bên ngoài, đã bị nhà nước
thổi phồng và nhồi nhét thành công cho nhân dân, thông qua tuyên truyền độc
đoán.
Nhà nước độc tài luôn luôn cần có
mối đe dọa nào đó từ bên ngoài, không phụ thuộc là phía bắc hay nam, đông hay
tây.
5. Sự khác biệt giữa chế độ phát
xít và nền dân chủ.
Chủ nghĩa phát xít nắm chính quyền
với ý nghĩ hợm hĩnh rằng, đã sáng tạo ra một nền dân chủ quần chúng và thực
chất hơn nền dân chủ của "nhà nước tự do", nền dân chủ mà thật may
mắn "không bị xây dựng trên những cơ sở tài phiệt xấu xa nhất.". Báo
Berliner Tageblat,trong số ra ngày 7.6.1933 đã viết về chủ nghĩa quốc xã như
sau: "Chủ nghĩa Hitler là phong trào dân chủ nhất ở Ðức trong vòng năm
mươi năm gần đây."(103-105)
Khi phát biểu trước cuộc họp quần
chúng ở Coln ngày 26.3.1937, Gobelx đã tuyên bố: "Ở nước Ðức, một nền dân
chủ thực sự đã trở thành thực tiễn sống động, trong đó toàn thể dân tộc tự do
bày tỏ nguyện vọng của mình..." (166-115,116)
Trong Học Thuyết Về Chủ Nghĩa Phát
Xít, Muxolini cũng đã viết rằng, nhà nước phát xít tượng trưng cho "một
nền dân chủ có tổ chức, tập trung và pháp quyền."(112-17)
Ðặc biệt, Hitler đã lên án gay gắt
nền dân chủ phương Tây, nền dân chủ theo như chính lời ông chỉ được sử dụng
"bởi một tầng lớp tư sản không đáng kể, trong khi nhân dân bần cùng thì
đông hơn nhiều lắm." (128-376). Trong diễn văn đọc trước công nhân các nhà
máy vùng Berlin ngày 10.12.1940, Hitler công kích phương Tây tự do như sau:
"Trong thế giới Anh - Pháp
tồn tại cái gọi là dân chủ . Nói cách khác, ở đó nhân dân điều hành chính
quyền, do đó nhân dân phải có khả năng thể hiện suy nghĩ và nguyện vọng của
mình. Nhưng nhìn kỹ hơn vấn đề này sẽ thấy, nhân dân không hề có được quan điểm
của mình và đó chỉ là, tất nhiên - như ở mọi nơi - quan điểm giả tạo. Vấn đề
cốt lõi là: ai dạy bảo và giáo dục nhân dân?
Và trên thực tế, giới tư bản đang
trị vì trong những đất nước này, đó là một nhóm vài trăm người, giàu có không
xiết kể và ít nhiều có vẻ được độc lập vì cấu trúc đặc biệt của những nhà nước
này.
Những người này nói: "Chúng
tôi có tự do", và trước hết, họ hiểu đây là tự do kinh tế, còn tự do kinh
tế thì được hiểu không chỉ là tự do tích lũy tư bản, mà là tự do sử dụng tư
bản. Nói cách khác, họ chỉ cần được tự do, không bị nhà máy hay nhân dân kiểm
soát
trong việc tích lũy và sử dụng tư
bản. Ðó chính là khái niệm của họ về tự do." (128-374)
Trong thời gian chiến tranh, Anh
là nước bị Hitler công kích dữ dội nhất:
"Tại đất nước này tồn tại những
khác biệt giai cấp kinh khủng nhất mà con người có thể tưởng tượng ra. Một bên
là đói nghèo, cùng cực - và một bên là giàu có không xiết kể . Ở đây không một
vấn đề xã hội nào được giải quyết.
Các tầng lớp công nhân ở nước này,
đất nước chiếm một phần sáu diện tích địa cầu và những kho báu dưới lòng đất
của toàn thế giới đều nằm tại đây, đang phải sống bần cùng trong những ngôi nhà
ổ chuột, và đại bộ phận là ăn mặc hết sức rách rưới."(128-376)
Ðể đối ngược với nền dân chủ giả hiệu
của phương Tây tự do, Hitler đã dùng nền kinh tế "thật sự" và
"thực chất" của nhà nước quốc xã, nơi mà nạn thất nghiệp đã bị xóa bỏ
và luân chuyển tư bản, nghĩa là phân chia và sử dụng tư bản, nằm dưới sự kiểm
soát toàn diện của đảng quốc xã. Như vậy nước Ðức, từ một nền dân chủ cho
"một tầng lớp không đáng kể những kẻ giàu có" đã biến thành nền dân
chủ cho "toàn thể nhân dân." . Hitler nói: "Trong thế giới tư
bản dân chủ, nguyên tắc kinh tế quan trọng nhất là: nhân dân chịu trách nhiệm
sản xuất, và sản xuất sinh ra tư bản. Chúng ta đảo ngược lại nguyên tắc này và
nói: tư bản là để sản xuất, và sản xuất là để cho nhân dân! Trong ý nghĩa rộng
nhất: trước hết là vì dân, và những cái khác là công cụ để đạt được mục đích
này."(128-373)
Ở đây cũng như những lần khác, khi
công kích nền dân chủ tự do Hitler đã cố tình bỏ quên không nói đến một vấn đề
cốt lõi nhất: thứ nhất, ai là sở hữu của tư bản trong nhà nước quốc xã? Thứ
hai, sự kiểm soát của đảng quốc xã đã làm thay đổi những gì trong những quan hệ
về sở hữủ thứ ba, nạn thất nghiệp ở Ðức đã được loại bỏ bằng cách nào và nhằm
mục đích gì? Thứ tư, liệu giai cấp công nhân Ðức có khả năng kiểm tra sự luân
chuyển của tư bản, mà không phụ thuộc vào sự kiểm soát của đảng và nhà nước
phát xít không?
Nhưng đối với bọn quốc xã, chỉ với
việc loại bỏ nạn thất nghiệp cũng đã là dẫn chứng không cần bàn cãi rằng, ở Ðức
có nền dân chủ thực sự, khác hoàn toàn với nền dân chủ giả hiệu của các nhà
nước tự do.
Bọn phát xít xem dấu hiệu rõ ràng
nhất cho nền "dân chủ" quần chúng của mình là những cuộc duyệt binh,
diễn hành chúc mừng Ðại Hội Ðảng ở Nuernberg và những cuộc mít tinh, biểu tình,
tuần hành chống kẻ thù của nhà nước và thường được toàn dân tham gia...(28-28)
Một cách khách quan, chủ nghĩa
phát xít khiến cho những quan niệm về nền dân chủ của chúng ta cần được bổ sung
và xác định lại. Chúng ta biết rằng bắt nhân dân xuống đường, mang biểu ngữ và
tuần hành hoàn toàn không phải la dân chủ, mà là sự cưỡng ép kín đáo, được tiến
hành nhờ những cơ cấu của chế độ độc tài; chúng ta biết rằng, thậm chí việc xóa
bỏ nạn thất nghiệp và đảm bảo mức sống tối thiểu cũng không phải là dân chủ,
nếu như những việc này được thực hiện nhằm chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh ăn
cướp; rằng nền dân chủ là cấu trúc xã hội, mà mọi cá nhân được đảm bảo quyền tự
do công dân và tự do chính trị, và do đó cá nhân được xem là có giá trị cao hơn
nhà nước và các cơ sở nhà nước.
A. Cá nhân
bị dùng làm vật hy sinh cho cộng đồng phát xít.
Trong nhà nước phát xít không thể
có dân chủ, vì dân chủ và độc tài là những nguyên tắc thù địch và đối kháng.
Bản thân cấu trúc nhà nước phát xít không cho phép có thể có dân chủ, một khi
nó bắt các cá nhân phải phục tùng tuyệt đối và tước đi của họ mọi khả năng tự
bảo vệ .
Ðối với chủ nghĩa phát xít, giá
trị chính trị cao nhất là đảng và nhà nước phát xít, còn mọi cái khác bắt buộc
phải phục tùng và phục vụ chúng. Cá nhân bị biến thành vật hy sinh cho
"cộng đồng phát xít" và chỉ có quyền được tồn tại khi phục vụ cho
cộng đồng này hay ít nhất là tuân theo nó.
Ðảng và nhà nước phát xít được xem
như những "cộng đồng" thể hiện đầy đủ nhất quyền lợi chung của mọi
công dân và đồng nhất với những quyền lợi này. Do đó đảng và nhà nước phát xít
đồng nhất với khái niệm nhân dân, dân tộc, quê hương... Vì vậy, giữa nhà nước
và các công dân không thể có mâu thuẫn, và nếu giả sử có trường hợp ngược lại
thì lỗi là do các công dân, và mâu thuẫn cần được giải quyết bằng cách trừng
phạt họ .
Nhìn chung, nguyên tắc của chủ
nghĩa độc tài là: sự phục tùng toàn diện của cá thể, của cái riêng cho
"cái chung"; sự thống trị của "cái chung" trên cái riêng là
không thể tách rời.
Ngược lại, nền dân chủ truyền
thống mang một ý nghĩa hoàn toàn đối lập, dù những hạn chế và bản chất giai cấp
thế nào đi nữa, nó vẫn chú trọng nhiều hơn về cái riêng, về cá thể . Ðối với
nền dân chủ tự do, giá trị chính trị cao nhất là nhân cách công dân, và những
giá trị khác có tính chất chung hơn như nhà nước, các đảng phái chính trị, các
tổ chức quần chúng có nghĩa vụ phải phục vụ và giúp đỡ cho việc cấu thành và
giữ gìn nhân cách công dân, trước hết là bảo vệ quyền tự do chính trị và tự do
công dân.
Khi xem nhân cách công dân là giá
trị chính trị cao nhất, nguyên tắc dân chủ xuất phát từ quan niệm rằng: sự phát
triển và tính đa dạng của một xã hội (chứ không phải của nhà nước) được hình
thành trên sự đa dạng về nhân cách của các công dân. Một xã hội phát triển,
giàu có và đa dạng chỉ có thể được cấu thành từ những công dân tự do và phát
triển đa dạng.
Ðể làm rõ hơn sự đối kháng giữa
nguyên tắc dân chủ và nguyên tắc độc tài trong quá trình xây dựng nhà nước,
chúng ta có thể nêu ra đây một thí dụ từ thời cổ về Ateln và Xpata. Mặc dù
Xpata chưa thể là nhà nước độc tài theo tinh thần của thế kỷ XX, những nguyên
tắc cơ bản của nó là độc tài. Trong chế độ quân sự này, mọi cá nhân đều phải
phục tùng nhà nước, giá trị cơ bản của người dân là phục vụ nhà nước, tự rèn
luyện mình để trở nên cứng cáp và được tôi luyện trong chiến tranh. Và toàn bộ
cuộc sống tinh thần, toàn bộ suy nghĩ của cá nhân đều nhằm phục vụ cho mục đích
này.
Trên cơ sở đó, Xpata đã đạt được
những thắng lợi to lớn trong chiến trận, trở thành một trong những nhà nước Hy
Lạp hùng mạnh nhất. Nhưng đó là tất cả những gì mà Xpata đạt được; trong lĩnh
vực văn hóa, nó hoàn toàn không sáng tạo được gì.
Ngược lại, Ateln là một nhà nước
Hy Lạp lớn khác, trong đó nền dân chủ nô lệ phát triển rực rỡ, tạo điều kiện để
thu hút nhân cách cá nhân trong những công dân tự do. Hay theo lời Hegel:
"Thiên tài được tự do thể hiện những quan niệm của mình - và nguyên tắc
này đã tạo nên những bức họa vĩ đại với nghệ thuật thể hiện tinh vi cùng những
văn phẩm thơ ca và lịch sử bất tử" .(126-389)
Trao toàn bộ tự do cho các nhà
sáng tạo, Ateln như một khối nam châm khổng lồ thu hút mọi tinh hoa của thế
giới Hy Lạp: Exhil, Xofocul, Arixtofan, Apoloni, Pitago... và trở thành thủ đô,
thành trung tâm văn hóa của thế giới này.
Ðây là lẽ đương nhiên - nền dân
chủ, với quyền tự do công dân rộng lớn mà nó trao cho các cá thể, là miếng đất
màu mỡ cho nhân cách cá nhân phát triển, và xã hội dựa theo đó mà phát triển
theo.
Cũng vì lý do như trên mà không
một nhà nước phát xít nào trong thế kỷ XX sản sinh ra được cơ sở cho những tấm
gương vĩ đại trong văn học, nghệ thuật và văn hóa nói chung. Chỉ trong lĩnh vực
khoa học kỹ thuật quân sự, nhà nước phát xít mới vượt trước các nước khác, đạt
được những kết quả đáng kể; đồng thời bóc lột tài năng của hàng nghìn nhà bác
học và hàng triệu người khác. Nước Ðức - Hitler đã vượt xa trong những kỹ thuật
sản xuất tên lửa tầm ngắn và tầm xa (Fau 1 và Fau 2) và chỉ thiếu chút nữa là
chế tạo được bom nguyên tử . Italia với những hạn chế dân tộc đáng kể, cũng đạt
được một số thành tích trong lĩnh vực quân sự hàng không. Nhưng cả Ðức, Italia
và Tây Ban Nha không để lại được cho kho tàng văn hóa nhân loại ngay cả một tác
phẩm nghệ thuật thô kệch.
Việc trả giá này của nền văn hóa -
chính trị trong chế độ phát xít, không phải vì nhà nước thiếu quan tâm săn sóc,
như đôi lúc người ta đã nghĩ như thế. Trái lại, đây là kết quả của sự quan tâm
và săn sóc quá sâu sát của đảng và nhà nước phát xít. Những lãnh tụ chính trị
của nhà nước này đã dạy các họa sĩ, nhà văn cần phải cảm hứng cái gì, thể hiện
cái gì và như thế nào, để được chế độ công nhận là tác phẩm nghệ thuật.
Khi Hitler "tấn công"
các họa sĩ tân tiến, giữa những lời ông có một điều đúng, đó là: "Thiên
tài không phải là không suy nghĩ". Nhưng ông ta đã cố quên không nhắc đến
một mặt khác của thiên tài rằng: "thiên tài không thể bị lãnh đạo".
Bởi vì ai muốn lãnh đạo thiên tài, thì cần phải thiên tài hơn. Thiên tài không
cần phải có thầy dạy bảo.
B. Cơ quan
hành luật được đặt trên cơ quan lập hiến.
Cấu trúc của nhà nước độc tài
không thể trùng lặp với nền dân chủ . Việc tập trung quyền lực tuyệt đối khiến
nó không thể áp dụng nguyên tắc dân chủ cơ bản khi xây dựng nhà nước: NGUYÊN
TẮC CHIA QUYỀN. Về hình thức, nhà nước phát xít vẫn giữ ba cơ quan quyền lực
(lập hiến, xét xử và thi hành), vẫn giữ quốc hội, tòa án và chính phủ như những
cơ quan nhà nước tối cao. Nhưng đó chỉ là hình thức, vì sau khi sát nhập với
nhà nước, đảng phát xít có toàn quyền kiểm soát những cơ quan quyền lực này.
Trên thực tế, cả quốc hội, chính phủ và tòa án đều bao gồm từ những đảng viên
phát xít, và đảng này kiểm soát họ như những thành viên của mình. Từ đây suy ra
rằng, cả ba cơ quan quyền lực này đều là cơ quan của đảng, và đảng xem chúng
như những công cụ để thi hành chính sách chính trị của mình trong nhà nước và
xã hội.
Hoặc nếu chúng ta nhìn vấn đề một
cách tổng quát hơn, sẽ nhận được bức tranh như sau: về hình thức, nhà độc tài
được xây dựng giống nền cộng hòa tư sản, đảm bảo chặt chẽ nguyên tắc chia
quyền. Nhưng đứng trên nhà nước, với ba cơ quan quyền lực và những tổ chức
tương ứng của chúng, là đảng phát xít, đứng đầu là lãnh tụ không thể thay thế
của nó. Ðảng kiểm soát cả ba cơ quan quyền lực và toàn bộ bộ máy nhà nước. Ðồng
thời không ai có quyền kiểm soát lại đảng - kể cả nhà nước, kể cả các tổ chức
quần chúng và xã hội. ÐẢNG LẤY QUYỀN LỰC TỪ NHÂN DÂN, GIỐNG NHƯ VUA CHÚA LẤY
QUYỀN LỰC T Ừ THƯỢNG ÐẾ.
Việc biến đổi quyền lực nằm trong
vòng luẩn quẩn. Vì chính phủ, quốc hội và tòa án đều thi hành chỉ thị của đảng,
nghĩa là thực hiện cùng một chính sách chính trị và đều là vô quyền trước giới
lãnh đạo đảng. Trong đời sống chính trị thực sự, nhà nước phát xít bắt đầu từ
bỏ kiểu hình thức này bằng cách nhấn mạnh vai trò của cơ quan hành luật.
Ðể tránh được điều trái quy luật
này và để bộ máy nhà nước có thể hoạt động linh hoạt, đảng phát xít trao chức
năng lập hiến cho cơ quan hành luật. Còn cơ quan lập hiến - tức quốc hội - chỉ
còn mang giá trị hình thức và được sử dụng để tuyên truyền cho tính chất dân
chủ giả hiệu của chế độ .
Ngày 24.3.1933 chính phủ Hitler
nhận được từ quốc hội (Raihxtaga) sắc luật toàn quyền đặc biệt, theo đó,
"chính phủ có thể ban hành các luật lệ trong Ðế Chế." (103-94). Với
văn bản này, bản thân quốc hội không còn là một cơ quan lập hiến. Toàn bộ luật
lệ có giá trị tại nước Ðức quốc xã đều do Hitler ban hành. Chính phủ Hitler là
thí dụ điển hình về cách thức nhà nước phát xít trao quyền lập hiến cho cơ quan
hành luật và bằng cách đó phá vỡ hoàn toàn nguyên tắc chia quyền. Sau ngày
24.3.1933, quốc hội Ðức (Raihxtaga) được sử dụng như diễn đàn để Hitler đọc
diễn văn tuyên truyền trước những cán bộ ngoại giao và nhà báo nước ngoài.
Những sự kiện tương tự cũng đã xảy
ra ở Italia bảy năm về trước. Sau khi ban hành "Những Sắc Luật Phát Xít
Ðặc Biệt" vào năm 1925-1926, kết quả là đảng phát xít thiết lập đưọc cơ
cấu một đảng quyền và điều hành toàn bộ bộ máy nhà nước, chế độ trao chức năng
lập hiến cho cơ quan hành luật. Chính phủ có thể quyết định những vấn đề mà
trước đây được giải quyết tại quốc hội. Những "cải cách" theo hướng
này được phát xít Italia thực hiện bằng hai sắc luật:
a/ Sắc luật về quyền hạn và nhiệm vụ
của Thủ Tướng chính phủ, Bí Thư Thứ Nhất Nhà Nước,
và
b/ Sắc luật về quyền của cơ quan
hành luật được ban hành những quy định pháp luật. Như vậy, vai trò của quốc hội
chỉ còn là con số không.
Ðiểm đặc biệt này của các nhà nước
phát xít cũng được thực hiện ở Tây Ban Nha. Với sắc luật củng cố nghị viện ra
ngày 17.7.1942, Franco xác định vai trò của nghị viện như sau: "Nhiệm vụ
chính của nghị viện là dự thảo và ban hành luật lệ, nhưng không được ảnh hưởng
đến toàn quyền của người đứng đầu nhà nước." (20-284). Ðiều 13 của sắc
luật này cho phép chính phủ "trong trường hợp chiến tranh hoặc khẩn cấp
được ban hành các sắc luật và sau đó, chỉ cần thông báo lại với nghị
viện." (20-285)
Tất nhiên, chủ nghĩa phát xít
không phủ nhận nguyên tắc chia quyền. Nó chỉ "điều chỉnh lại" cho phù
hợp với những nhu cầu của nhà nước. Raco, một trong những nhà lý luận của phát
xít Italia, đã viết về vấn đề này như sau:
"Nguyên tắc chia quyền không
phải tuyệt đối, không phải là sự cần thiết để nhà nước có thể tồn tại, và nhà
nước không thể vì nó mà phải hy sinh. Nguyên tắc này có thể xem như nguyên tắc
cơ bản trong hiến pháp, duy trì sự sống và đảm bảo trật tự trong các hoạt động
của nhà nước. Nhưng trước sự sống còn của nhà nước, thì những chức năng của các
cơ quan quyền lực, đặc biệt là cơ quan lập hiến, cần phải được trao cho chính
phủ - cơ quan có nghĩa vụ và trách nhiệm duy trì sự sống liên tục cho nhà nước,
khi đó nguyên tắc chia quyền cần phải có một giới hạn và thay đổi nhất định.
Tất cả những điều này chỉ ra rằng, chia quyền là một nguyên tắc bình thường,
chứ không phải tuyệt đối và bất biến." (112-45)
Chế độ phát xít xem việc đặt cơ
quan hành luật trên cơ quan lập hiến là "ưu điểm" to lớn của mình, so
với nền dân chủ tự do truyền thống, rằng cách đó, nó đạt được tính năng động là
linh hoạt, có thể nhanh chóng giải quyết được những vấn đề xã hội quan trọng,
không cần bàn cãi và tranh luận dài dòng trong quốc hội. Ði Xtefan, Bộ Trưởng
Bộ Tài Chính trong chính phủ Muxolini, đã từng tuyên bố: "Chế độ phát xít
thay tranh luận bằng hành động."(112-112)
Trong bài phát biểu ngày
16.1.1937, Rudolf Hex cũng tán dương cho kiểu cải tổ hiến pháp, "điều
chỉnh" nguyên tắc chia quyền: "Chế độ quốc xã quan tâm đến vấn đề
này, vì những nhu cầu sống bức thiết của nhân dân không nên để lâu trong quốc
hội và trở thành đối tượng thương mại giữa các đảng phái. Các ngài đã biết,
trong chính phủ mới những quyết định mang ý nghĩa lịch sử được thống lĩnh và
chính phủ thông qua - những quyết định mà ở các nước khác còn bị quốc hội bàn
cãi nhiều tuần lễ."(84-706)
Bằng cách đó, nhà nước phát xít
không chỉ đặt cơ quan hành luật lên trên cơ quan lập hiến và tòa án, mà còn
khiến cho những vụ bê bối chính phủ không thể xảy ra. Trong thời gian của chủ
nghĩa phát xít, ở cả ba nước Ðức, Italia và Tây Ban Nha, không hề có vụ bê bối
chính phủ nào. Năm 1965, Franco thành lập chính phủ thứ mười hai. Ông ta tự
chọn và thay đổi các Bộ Trưởng khi cần thiết. Hitler và Muxolini mặc dù không
có thời gian để thành lập chính phủ nhiều lần như vậy, nhưng nhìn chung cả hai
người này cũng thực hiện theo cách đó. Chế độ phát xít tạo ra cái gọi là chính
phủ quay vòng, các Bộ Trưởng có thể bị thay đổi, nhưng người đứng đầu thì vẫn
giữ nguyên lãnh tụ phát xít như cũ. Chế độ phát xít xem vấn đề này là một trong
những ưu điểm to lớn, so với nền dân chủ tự do, nơi vẫn thường xảy ra những vụ
bê bối chính phủ . Thực chất, "ưu điểm" giả tạo này có được vì chính
phủ chỉ là một công cụ mà đảng phát xít sử dụng để thi hành chính sách chính
trị của đảng trong nhà nước. Do đó người đứng đầu chính phủ luôn luôn không bị
thay đổi và cũng là thủ lĩnh của đảng phát xít.
C. Viện
kiểm soát phục tùng cảnh sát.
Ðây là một trường hợp phụ trong
việc phá vỡ nguyên tắc chia quyền. Nhưng nó cũng xuất phát từ cấu trúc nhà nước
phát xít, hay đúng hơn - từ việc biến đổi quyền lực thực sự của chính quyền
phát xít. Các Thủ lĩnh đảng và nhà nước phát xít điều hành điều hành đất nước
dựa chủ yếu vào các cơ quan khủng bố: Zetapo, SS, SA (ở Ðức), công an phát xít,
tổ chức vũ trang "Những Người Phát Xít Trẻ" ... (ở Italia). Ðó là chỗ
dựa chính trị tin tưởng nhất của chúng trong nhà nước và cả trong đảng phát
xít.
Bản thân Hitler đã nhiều lần nhấn
mạnh đến vai trò khủng bố trong việc điều hành hệ thống chính trị . Trong một
lần nói chuyện với các Bí Thư Khu Ủy tại biệt thự của ông ta ở Brehtexgadel,
Hitler tuyên bố: "...Tôi sẽ tiến hành khủng bố một cách bất ngờ và bằng
mọi phương tiện hủy diệt mà tôi có. Khủng bố là vũ khí chính trị hiệu quả nhất,
và tôi sẽ không từ bỏ, nếu chỉ vì nó làm cho một vài tiểu thị dân ngu ngốc nào
đó khó chịu. Thành công phụ thuộc vào quả đấm thô bạo, gây nỗi kinh hoàng khủng
khiếp... Và nếu trong các ngài có những kẻ hèn nhát không chịu được điều đó,
xin mời họ hãy đến nhà chùa mà sống với các thầy tu. Không có chỗ cho những kẻ
như thế trong đảng của tôi."(52-43)
Biểu đồ "lãnh tụ dân tộc -
đảng phát xít - nhà nước - xã hội công dân" không phải là con đường biến
chuyển quyền lực thực sự . Ảo tưởng rằng các Thủ lĩnh phát xít điều hành đất
nước bằng cách dựa trực tiếp vào đảng phát xít, xuất phát từ tuyên truyền, nhằm
thể hiện một cơ sở rộng rãi của chế độ, nâng cao vai trò của đảng phát xít
trong việc lãnh đạo đất nước. Thực chất, các Thủ lĩnh phát xít điều hành dựa
trên hệ thống khủng bố, nghĩa là dựa trên bộ phận được vũ trang và trung thành
nhất của đảng phát xít, mà quyền lợi vật chất của nó liên quan đến việc củng cố
chế độ . Giới cầm quyền chóp bu không thể dựa trực tiếp vào đảng phát xít, bởi
vì thành phần xã hội phức tạp của đảng và điều kiện vật chất rất khác nhau của
các đảng viên không tránh khỏi dẫn đến những cảm hứng và suy nghĩ khác biệt.
Một công nhân, đảng viên phát xít, không thể có những suy nghĩ giống với giới
cầm quyền chóp bu, với mức lương cao hơn hàng trăm lần và còn được hưởng những
ưu ái vật chất khác; một trí thức hay một sĩ quan, xuất thân từ tầng lớp thượng
lưu, không thể có cùng tâm lý với những cán bộ đảng hãnh tiến. Sau cùng giữa
các Thủ lĩnh của giới cầm quyền chóp bu cũng có những mâu thuẫn, và với những
điều kiện nhất định, có thể dẫn đến âm mưu đảo chính.
Ðiều đó giải thích tại sao giới
cầm quyền chóp bu không thể dựa trực tiếp vào đảng phát xít với số lượng không
lồ các đảng viên. Chúng ta không nên quên rằng, cái gọi là "xã hội phát
xít" vẫn chỉ là một xã hội với sự phân chia giai cấp sâu sắc. Dấu hiệu đặc
biệt này chứa đựng những bất ngờ nguy hiểm - âm mưu, xu hướng đối lập trong
đảng...
Ðể có thể tránh được những nguy
hiểm này, giới cầm quyền chóp bu dựa chủ yếu vào lực lượng cảnh sát chính trị (cảnh
sát mật), sau đó mới đến đảng và nhà nước. Vì thí dụ, nếu trong đảng xuất hiện
xu hướng đối lập, giới cầm quyền chóp bu sẽ không tranh luận hay thuyết phục,
mà sẽ đàn áp thẳng thừng thông qua lực lượng khủng bố.
Như vậy lực lượng cảnh sát trở
thành tổ chức tin tưởng nhất, thành chỗ dựa chính trị vững chắc nhất cho giới
cầm quyền phát xít chóp bu. Và để thực hiện được vai trò của mình, lực lượng
khủng bố này được trao quyền lực to lớn, có toàn quyền hành động trên danh
nghĩa giới cầm quyền chóp bu.
Với cơ cấu hoạt động như thế - và
không thể có cách nào khác - tòa án và viện kiểm sát, hiển nhiên bị gạt ra rìa.
Tòa án thường hành động chậm chạp và ít nhiều mang tính công khai, đôi khi làm
hỏng việc; còn đối với nền chuyên chính phát xít, đòi hỏi trước tiên là khẩn
trương và quyết đoán, không cần đắn đo bất cứ một điều gì.
Vì lý do này, trong nhà nước phát
xít, các cơ quan tư pháp thường hành động sau cảnh sát, bao che và hợp pháp hóa
những việc mà lực lượng khủng bố đã làm. Nếu cơ quan tư pháp chống lại những
hành vi của cảnh sát, nó sẽ phá vỡ mối quan hệ hỗ tương thực sự giữa các cơ
quan quyền lực trong nhà nước phát xít; và điều đó hoàn toàn không thể cho
phép. Cũng vì thế, bất cứ ai rơi vào tay cảnh sát đều có tội. Bởi nếu ngược lại
thì chứng tỏ là cảnh sát có những hành vi phạm pháp - điều không thể cho phép
vì quyền lợi của phát xít.
Ðể minh họa cho những phân tích
trên đây, chúng ta chỉ cần nhớ lại sự kiện "Ðêm Của Những Lưỡi Gươm
Dài" (ngày 30.6.1934). Chỉ trong một đêm, hàng chục nghìn Thủ lĩnh và sĩ
quan SA đã bị thủ tiêu, vì bị buộc tội là có âm mưu chống lại Ban lãnh đạo đảng
quốc xã, mặc dù không có cơ sở cho kết luận đó. Chiến dịch này đã được các đội
SS - chỗ dựa chính trị hứa hẹn nhất của giới cầm quyền quốc xã chóp bu - thực
hiện. Một vài tháng sau, tòa án mới dựa vào những "dẫn chứng" của SS
để khẳng định rằng Bộ chỉ huy SA quả có âm mưu chống đối và việc hủy diệt nó
cần phải được tiến hành khẩn trương.
Một thí dụ khác, trong những tháng
cầm quyền đầu tiên của bọn quốc xã, hàng trăm nghìn đối thủ chính trị của chế
độ đã bị bắt giam vào các trường học, trại tập trung, không cần xét xử và tuyên
án. Mãi sau khi đã nhốt những người này vào nhà tù, đảng phát xít mới quyết
định hợp pháp hóa hành động khủng bố nàỵ Các tòa án địa phương bắt đầu tìm cách
buộc tội những người đã nằm trong tù nhiều tháng.
Thí dụ này cho thấy rõ nhất những
quan hệ tương hỗ giữa tòa án và lực lượng khủng bố. Mặc dù chúng đều là những
cơ quan của nhà nước, chế độ vẫn tin tưởng sử dụng lực lượng khủng bố hơn, bởi vì
đó là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để đạt được mục đích, loại bỏ được
những trình tự hình thức, trong khi thi hành pháp luật.
Ðối với các cá nhân trong nhà nước
độc tài, sự phục tùng của tòa án trước cảnh sát giống như một cái vòng thôi
miên ma quỷ, mà không ai có thể bước qua. Cảnh sát là cơ quan vi phạm nhiều
nhất quyền tự do chính trị và tự do cá nhân của các công dân. Ðể có thể kiện
những hành vi phạm pháp của cảnh sát, người công dân cần phải đưa đơn tại tòa
án. Nhưng vì các tổ chức tòa án phụ thuộc hoàn toàn vào các bộ máy cảnh sát,
nên trên thực tế, những người này lại rơi vào tay cảnh sát. Kẻ phạm tội trở
thành quan tòạ Báo Folciser Beobahter số ra ngày 26.8.1933 viết, "Dân
chúng thường kêu ca những hành vi lừa đảo của bọn mật vụ ... Trong mọi trường
hợp, cơ quan đầu tiên nhận những đơn kiện đó lại là đội mật vụ địa
phương." . Bọn mật vụ phạm tội và cũng chính bọn mật vụ ban phát công lý
cho những nạn nhân của mình!
Sở dĩ tồn tại vòng thôi miên ma
quỷ này vì cảnh sát và tòa án đều là những tổ chức của đảng phát xít và phải
thi hành nguyện vọng của đảng.
Khi đảng phát xít ra lệnh khủng bố
những kẻ thù của nhà nước, không thể mong đợi tòa án sẽ tuyên bố chống lại sự
khủng bố này, vì như một tổ chức phát xít, tòa án phải bao biện và hợp pháp hóa
những hành động khủng bố của cảnh sát.
D. Cương
vị bù nhìn của quốc hội.
Sau khi chức năng lập hiến được
trao cho cơ quan hành luật, vai trò của quốc hội chỉ là hình thức và một khi
còn tồn tại (cả ba nhà nước phát xít đều không hủy bỏ quốc hội), giá trị của nó
là để sinh ra ảo tưởng rằng, trong nhà nước tương ứng vẫn hiện hành một chế độ
pháp quyền. Trong "Tuyên Bố Cương Lĩnh Của Chính Phủ" do Quốc Trưởng
Adolf Hitler đọc trước Quốc hội ngày 23.3.1933 có đoạn: "Nếu để cho quốc hội
bàn cãi và quyết định mọi vấn đề và mọi biện pháp, chính phủ Ðức có thể sẽ đi
ngược lại tinh thần phục sinh dân tộc... Hành động như thế, chính phủ hoàn toàn
không có ý định bãi bỏ quốc hội và các chức năng của nó; ngược lại, chính phủ
vẫn để cho quốc hội tồn tại và được quyết định một số biện pháp có thể chấp
nhận, và thậm chí nếu cần thiết, có thể yêu cầu quốc hội bổ sung ý kiến."
(128-188)
Cũng trong tuyên bố này, Hitler
giải thích tại sao chế độ quốc xã không công nhận cơ cấu quốc hội: "Chúng
ta không công nhận rằng, quốc hội thể hiện được nguyện vọng của nhân dân, mà
theo tính logic đó chỉ có thể là nguyện vọng bảo vệ nhân dân; chúng ta nhìn
thấy trong cơ cấu quốc hội sự thể hiện sai lầm nguyện vọng này, thậm chí là
xuyên tạc. Nguyện vọng của một dân tộc khẳng định sự tồn tại của nó, được thể
hiện rõ ràng nhất, có lợi nhất trong những nhân cách tốt đẹp của dân tộc đó. Họ
là ban lãnh đạo đại diện cho dân tộc và chỉ có họ mới có thể là niềm tự hào cho
nhân dân, chứ không thể là cái nhóm đại biểu quốc hội, mà nơi sinh ra thùng
phiếu và bố đẻ là bản danh sách bầu cử vô danh."(128-202)
Vai trò hình thức của quốc hội
trong nhà nước độc tài được xác định từ những tình tiết sau:
- Quốc hội phục tùng chính phủ,
chính phủ thay thế quốc hội ban hành sắc luật.
- Thậm chí nếu quyền lập hiến vẫn
thuộc về quốc hội và nó được xếp trên chính phủ (như khi đảm bảo tuyệt đối
nguyên tắc chia quyền) thì điều đó cũng vẫn không làm thay đổi cương vị bù nhìn
của quốc hội. Bởi vì đứng trên quốc hội, chính phủ và tòa án là "hạt nhân
đại diện cho dân tộc", được gọi là đảng phát xít. Trước khi đệ trình quốc
hội, tất cả mọi luật lệ đều phải được hạt nhân đại diện của đảng phát xít bổ
sung. Nếu không được sự đồng ý của hạt nhân đại diện này, thì không một điều
luật nào đến được với quốc hội.
Ðể minh họa, chúng ta chỉ cần nhớ
lại những quyền lực mà Hex (và sau đó là Martin Borman) đã có đối với mọi hoạt
động pháp luật trong Ðế Chế, hay là Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao - đối với quốc
hội Italia.
Như vậy do cấu trúc của chế độ
được thiết lập, mọi hoạt động chính trị thực sự trong quốc hội đều bị loại bỏ,
mọi vấn đề đều được đồng tâm nhất trí thông qua, giống như trong các Ðại Hội
Ðảng, bằng cách hô đồng loạt: "Hail Hitler!" hay "Franco -
Falanga!"
Trong lịch sử chủ nghĩa phát xít
không có trường hợp nào mà quốc hội bác bỏ những sắc luật của chính phủ và cũng
không dám phê phán hay chê bai. Ðiều này cho thấy một cách rõ ràng nhất tính
hình thức của quốc hội và chỉ ra vai trò thực sự của nó: là diễn đàn để lãnh tụ
phát xít tán dương những quyết định của mình trước các công dân và thế giới.
Cách thức bầu đại biểu quốc hội
cũng cho thấy vai trò hình thức của nó. Các đề cử viên được đảng phát xít hoặc
những tổ chức quần chúng chỉ định. Thí dụ ở Italia, đề cử viên được các tổ chức
nghiệp đoàn giới thiệu, sau đó danh sách đề cử được Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao
bổ sung thêm. "Các đề cử viên được những nhóm sản xuất, cơ sở kinh tế và
hiệp hội trí thức - nghĩa là cơ sở và tổ chức của hệ thống nghiệp đoàn quốc gia
- chỉ định. Sau đó Hội Ðồng Phát Xít Tối Cao bổ sung thêm vào danh sách đề cử
viên những người xứng đáng nhất trong mọi lĩnh vực xã hội, những người mà dân
tộc (cần phải hiểu: đảng phát xít - J.J.)bầu lên thành những lãnh tụ của
mình." (112-205)
Ở Ðức và Tây Ban Nha, việc bầu cử
quốc hội cũng được tiến hành theo cách thứ tương tự .
Với kiểu bầu cử như thế, các đại
biểu quốc hội trên thực tế đều là những cán bộ lãnh đạo của đảng và đại diện
của cơ quan hành luật.
E. Trò bầu
cử hài hước.
Các cuộc bầu cử trong nhà nước độc
tài chỉ là những trò hài hước chính trị . Ðáng lẽ ở những dạng nhà nước này
hoàn toàn không cần đến bầu cử, bởi vì kết quả thắng lợi luôn luôn được đảm
bảo. Nhà nước không bao giờ có thể thua trong các cuộc bầu cử, và nếu không
thắng lợi 100%, thì cũng phải gần sát con số đó. Thí dụ trong cuộc trưng cầu
dân ý vùng Xaarx vào năm 1935, 90% dân chúng đã bỏ phiếu tán thành việc sát
nhập với nước Ðức (71-194)... Chúng ta nên biết rằng trước khi nắm chính quyền,
bọn quốc xã chưa bao giờ chiếm được quá 37,3% số phiếu.
Trong cuộc trưng cầu dân ý ngày
19.8.1934 về vấn đề sát nhập các trọng trách Tổng Thống và Thủ Tướng, nhân dân
Ðức cũng "đồng tâm nhất trí" và "tin tưởng" trao toàn bộ
những quyền lực này vào tay Hitler.
Ở Tây Ban Nha, trong cuộc trưng
cầu dân ý vào tháng 3.1947 về vấn đề "sau khi Franco chết, có cần giữ nền
quân chủ nữa hay không", chính phủ cũng thu được 80% phiếu thuận.
Những cuộc bầu cử chính trị trong
nhà nước độc tài là hoàn toàn hình thức, vì mọi cái đã được sắp đặt sao cho
giới cầm quyền chóp bu có thể tự mình lựa chọn.
Giả mạo phiếu bầu là việc dễ dàng
nhất và thường xuyên xảy ra trong thời gian bầu cử . Lúc thống kê phiếu, thường
gặp những trường hợp khôi hài khi số phiếu thuận nhiều hơn cả số cử tri.
Trong hồ sơ của tòa án Nuernberg có
đoạn viết: "Tiếp theo, với sự giám sát của những phần tử quốc xã, các cuộc
bầu cử trở nên hoàn toàn hình thức, không còn một chút tự do nào. Bầu cử, với ý
nghĩa thực sự của từ này, hoàn toàn không thể có trong chế độ quốc xã."
(84-580)
Những tài liệu thu được sau sự sụp
đổ của phát xít Ðức cho thấy các cuộc bầu cử đã được tiến hành như thế nào, đâu
là sự thật ẩn giấu sau sự đồng tâm nhất trí của các cử tri, các lực lượng khủng
bố bí mật, dưới danh nghĩa giữ gìn trật tự đã hoạt động ra sao... Macxuel, người
buộc tội người Anh tại tòa án Nuernberg nói: "Chúng tôi thu được toàn bộ
hồ sơ của vùng Erfurt (Tiuringia), trong đó có những tài liệu liên quan đến
cuộc trưng cầu dân ý năm 1937. Các cán bộ đảng cơ sở có nhiệm vụ phải thông báo
những người có thể bỏ phiếu chống trong khu vực của chúng. SD ra các sắc lệnh
cho cán bộ đảng cơ sở và lãnh đạo những đội an ninh. Những cán bộ hành chính cơ
sở có nghĩa vụ phải cộng tác chặt chẽ với cán bộ đảng."(89-564)
Và trên thực tế, SD đã thi hành
sắc lệnh theo dõi các công dân xem họ bỏ phiếu thuận hay phiếu chống, một việc
có thể xác định dễ dàng (89-563). Trong một tài liệu khác có ghi: "Người
ta đã phải nhắc anh công nhân Otto Vigand đến lần thứ tư là phải đi bỏ phiếu
đúng ngày bầu cử; kết quả là anh ta đã bỏ phiếu, chỉ vì bị cưỡng
ép."(89-563)
Và "...tại Bremen, các Bí Thư
Tỉnh Ủy, Huyện Ủy và Bí Thư Ðảng Bộ đã phải báo cáo bằng văn bản về những công
chức không tham gia bỏ phiếu trong cuộc bầu cử ngày 26.3.1936."(89-564)
"... tại Tiuringa, các Bí Thư
Ðảng Bộ và Chi Bộ phải báo cáo vấn đề phản ứng của nhân dân về kết quả của cuộc
trưng cầu dân ý năm 1938, "đặc biệt là tại các làng mạc và thị trấn nhỏ
."(89-565)
"Tại Rotenburg, đảng phát xít
tổ chức biểu tình chống một linh mục vì đã từ chối không tham gia bầu cử ..."(89-564)
F. Hủy
diệt mọi quyền tự do công dân và tự do chính trị .
Với việc thiết lập hệ thống phát
xít, trước tiên những quyền tự do công dân và tự do chính trị của cá nhân bị
hủy diệt. Một khi toàn bộ quyền hành đều nằm trong tay nhà nước, mọi cá nhân
không còn một chút quyền gì. Cá nhân chỉ có thể nhận được từ nhà nước những
quyền tối thiểu, cần thiết để phục vụ tốt hơn cho chế độ .
Chủ nghĩa xuất phát từ quan điểm
rằng, nhà nước là hiện thực chính trị cao nhất và tất cả hoài vọng về hiện thực
đều chỉ có thể nhận được từ nhà nước. Bọn phát xít Ytalia thể hiện nguyên tắc
này bằng khẩu hiệu, "Tất cả vì nhà nước; đứng ngoài nhà nước và chống lại
nhà nước là vô nghĩa."
Trên thực tế, phát xít Ytalia
thành lập hệ thống nghiệp đoàn, thâu tóm tất cả mọi tổ chức, hoạt động, thâu
tóm toàn bộ xã hội và mọi biểu hiện của xã hội. Nhân cách cá nhân chỉ có thể
thể hiện trong nhà nước và thông qua nhà nước. Muxolini viết trong Học Thuyết
Về Chủ Nghĩa Phát Xít, "Nhà nước phát xít là biểu hiện cao nhất và mạnh mẽ
nhất của nhân cách... nó thể hiện tất cả mọi hình thức của đời sống trí thức và
tinh thần con người." (80-8)
"Ðối với chủ nghĩa phát xít,
nhà nước là tuyệt đối, còn các cá nhân hay nhóm xã hội chỉ "có nghĩa"
khi thuộc nhà nước... Nhà nước không chỉ là hiện tại, mà còn là quá khứ và
trước hết là tương lai. Thông qua cuộc đời ngắn ngủi của các cá nhân, nhà nước
tượng trưng cho sự trường tồn của ý thức dân tộc. Hình thái nhà nước có thể
thay đổi, nhưng cái quan trọng thì còn lại mãi.
"... Ðối với chủ nghĩa phát
xít, nhà nước không phải là người canh cửa ban đêm để chỉ chăm lo đến vấn đề an
ninh cho các công dân; cũng không phải là tổ chức với mục đích hoàn toàn vật
chất, thí dụ như cộng sinh hòa bình, mà để điều hành chỉ cần một ban quản trị;
cũng không chỉ là nhận thức chính trị thuần túy, không liên quan gì đến thực tế
vật chất phức tạp của cuộc sống mỗi cá thể và dân tộc. Theo chủ nghĩa phát xít,
nhưng là linh hồn và tinh thần, vì nó cụ thể hóa tổ chức chính trị, pháp luật
và kinh tế của một dân tộc...
"Nhà nước giáo dục các công
dân về những phẩm chất tốt đẹp, trao cho họ nhận thức về giá trị của họ, dẫn họ
đến sự thống nhất, điều hòa quyền lợi của họ trong công lý; đồng thời thu nhận
mọi thành tựu trong khoa học, nghệ thuật, quyền lực cộng đồng con ngườị.."
(80.21)
Nói cách khác, nhà nước phát xít
là nhà nước tổng thể, thâu tóm toàn bộ mọi hoạt động và biểu hiện của các cá
nhân và cả chính bản thân các cá nhân đó. Vì cá nhân gắn liền với nhà nước, nên
không có quyền được tự do, không phụ thuộc vào nhà nước. Theo quan điểm phát
xít, nhà nước đồng nghĩa với nhân dân, dân tộc, quê hương... chăm lo đến các cá
nhân như mẹ đẻ . Và cá nhân không có quyền được yêu cầu tự do, giống như đứa
trẻ không thể xa mẹ nó.
Muxolini viết tiếp, "Một nhà nước
dựa vào hàng triệu cá nhân được họ công nhận và sẵn sàng phục vụ, không thể là
nhà nước ghê tởm thời trung cổ ...
"... Cá nhân trong nhà nước
không bị hủy diệt, mà được nhân lên nhiều lần, giống như trong một đơn vị quân
đội, giá trị của người lính không bị giảm đi, mà được nhân lên theo số lượng
các đồng chí của mình. Nhà nước phát xít tổ chức dân tộc, nhưng sau đó để cho
các cá nhân đầy đủ quyền tự do; nhưng chỉ hạn chế những quyền tự do không có
lợi, những quyển tự do có hại (!!!), và giữ gìn những quyền tự do chính đáng.
Chỉ có nhà nước, chứ không phải là cá nhân, được quyền phán xét trong lĩnh vực
này." (80-23)
"Trong nhà nước của chúng ta,
cá nhân không thiếu tự do, cá nhân có nhiều tự do hơn kẻ cô đơn, vì nhà nước
che chở cho cá nhân, cá nhân là một bộ phận của nhà nước, còn kẻ cô đơn thì
không có người bảo vệ ." (80-35). Vì lý do này, chính phủ phát xít không
ngần ngại xét xử các tác giả tư tưởng tự do. Từ đây cũng dẫn đến lòng căm thù
nền tự do dân chủ, vì nó đặt cá nhân cao hơn nhà nước. "Chủ nghĩa tự do
cưỡng ép nhà nước theo quyền lợi cá nhân, còn chủ nghĩa phát xít khẳng định nhà
nước như một thực tiễn thực sự của cá nhân. Và nếu quyền tự do cần phải thuộc
con người, chứ không phải là con búp bê tưởng tượng mà chủ nghĩa tự do ích kỷ
đã nghĩ, thì chủ nghĩa phát xít thuộc về tự do, về tự do duy nhất, tự do nghiêm
túc, tự do của nhà nước và tự do của cá nhân trong nhà nước (13). Một khi là
người phát xít thì tất cả phải giành cho nhà nước, không còn tồn tại bất cứ thứ
gì thuộc con người hay linh hồn; và đứng ngoài nhà nước thì giá trị thật không
đáng kể . Trong ý nghĩa này, chủ nghĩa phát xít là tổng thể và nhà nước phát
xít- đỉnh cao và sự thống nhất của tất cả mọi giá trị- tư duy, phát triển và
cống hiến toàn bộ cuộc đời cho nhân dân (14)." (80- 20)
Và nếu cá nhân không đồng ý với
chính sách chúng ta của nhà nước, với hệ tư tưởng và tinh thần của nó; giả sử
cá nhân không cần đến sự chăm sóc, bảo vệ của nhà nước và muốn phê phán hay đấu
tranh chống lại nó; khi đó nhà nước phát xít thực sự sẽ tỏ rõ những ưu việt dân
chủ của mình. Bằng mọi biện pháp- từ sức ép của những tổ chức quần chúng đến
trại tập trung cải huấn- nhà nước sẽ ngăn chặn và uốn nắn cá nhân đó theo con
đường "đúng đắn".
Sự so sánh của Muxolini về cá nhân
trong nhà nước và những người lính trong quân đội, mang ý nghĩa sâu sắc hơn
nhiều. Nó không những cho chúng ta thấy sự giống nhau giữa nhà nước và trại
lính, mà còn chỉ rõ "tự do" của các cá thể trong nhà nước này. Giống
như trong quân đội, theo luật quân sự, người lính chỉ có quyền tự do để suy
nghĩ bằng cách nào có thể thực hiện tốt hơn mệnh lệnh của cấp chỉ huy (và không
được do dự), cá nhân trong nhà nước độc tài cũng chỉ có quyền tự do tìm cách
phục vụ tốt hơn cho nhà nước, "sáng tạo" cho nhà nước.
Nói gọn hơn: tất cả những gì mang
lại lợi ích cho đảng và nhà nước phát xít, là tự do sáng tạo; và ngược lại, tất
cả những gì công kích lại chúng là tự do phá hại, vô chính phủ hay nổi loạn và
nhà nước không thể chấp nhận.
(còn tiếp)