Nhiều người chán kinh tế tư bản lắm
Nhật
báo Người Việt, California, 30/12/03
Ngô
Nhân Dụng
Hôm
qua mục này đă nhận xét mấy điều về bài
thuyết tŕnh của ông Nguyễn Phú Trọng khi ông phê b́nh
kinh tế tư bản. Ông gọi nó là "kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa," để
chứng tỏ c̣n có kinh tế thị trường
kiểu khác nữa. Trong đoạn thứ nh́ bài thuyết
tŕnh trên, ông Nguyễn Phú Trọng chê kinh tế tư
bản không phải là vạn năng.
Hôm
qua chúng tôi đă bàn về ư kiến đó, thưa với ông
rằng ở các xứ theo kinh tế tư bản không ai
nghĩ nó vạn năng cả. Ở nước Mỹ
chẳng hạn, ngày nào cũng có người chỉ trích
hệ thống kinh tế Mỹ và đ̣i thay đổi cái
này cái nọ ... Một vị chủ biên kinh tế có
tiếng và rất có ảnh hưởng trên chính giới
Mỹ, là ông Robert L. Bartley ở Nhật báo Wall Street,
mới qua đời tháng trước, ông từng than
rằng nhà báo phải viết 75 bài quan điểm th́
quốc hội và chính phủ mới chịu làm một đạo
luật để thay đổi một điểm nào đó
trong hệ thống kinh tế Mỹ. Viết 75 bài về
cùng một vấn đề, chắc phải mất 10
tới 20 năm! Thường phải mất 10 năm
người dân b́nh thường mới hiểu các ư
kiến của các nhà chuyên môn! Lúc đó, người dân
mới bỏ phiếu cho những chính trị gia đề
nghị thay đổị Các nhà chính trị biết nghe mà
thay đổi là điều tốt, nhưng nhiều khi
thay đổi xong một thời gian sau thấy nó không
chạy tốt như ư định ban đầu, lại
có người viết 75 bài khác, lại đ̣i thay đổi
nữa .
Kinh
tế tư bản nó như vậy, lúc nào cũng tự
thấy các khuyết điểm, lúc nào cũng sẵn sàng điều
chỉnh. Nó không có Bộ Chính trị nào lên lớp bắt
mọi người nghe . Nó không có "trường đảng"
nào để nhồi sọ người ta, khi lúc nào
cũng tự nh́n thấy các khuyết điểm.
Hôm
nay xin bàn tiếp về các khuyết điểm của
hệ thống kinh tế tư bản mà ông Nguyễn Phú
Trọng nêu lên.
Một
khuyết điểm là kinh tế tư bản "làm tăng
thêm tính bất công và bất ổn của xă hội, đào
sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và
người nghèo ."
Nghe
tới đây th́ "thằng kinh tế tư bản"
hết đường chối tội! Ở các
nước tư bản có người giàu và người
nghèo thật. So người giàu nhất như ông Bill Gates
với những người nghèo một năm lợi
tức chỉ có 12 ngàn th́ khoảng cách rất xạ
Nhưng trong xă hội Mỹ số người thuộc
20% giàu nhất nước hoặc 20% nghèo nhất mỗi năm
đều thay đổi chứ không phải là vẫn
bấy nhiêu người . Ông Bill Gates giàu, nhưng đời
ông, đời cha của ông ta cũng chưa giàu hạng
nhất nước Mỹ. C̣n những tỷ phú khác
bắt đầu với hai bàn tay trắng, không thiếu
ǵ. Điều quan trọng không phải là khoảng cách giàu
nghèo, mà là sự b́nh đẳng trong cơ hội làm giàu .
Hỏi một công nhân ở Mỹ coi anh, chị ta có ganh
tức v́ ông Bill Gates giàu hay không? Chắc là không. Họ
biết ai bắt được cơ hội trước
và có làm việc, có sáng kiến th́ người đó
thắng.
V́
kinh tế tư bản khuyến khích người ta
kiếm lời nên các xí
nghiệp
phải t́m những người có khả năng nhất
mà mướn vào làm, t́m các sáng kiến hay nhất mà đem
thử, cho nên nhiều người có cơ hội thăng
tiến hơn là các xứ cộng sản.
Nhưng
nước Mỹ cũng không phải là quốc gia duy
nhất theo kinh tế tư bản. Có nhiều cách tổ
chức kinh tế tư bản. Ở Nhật Bản,
ở Bắc Âu cũng áp dụng kinh tế tư bản
hàng trăm năm, và khoảng cách giữa những
người giàu nhất và nghèo nhất ở các
nước đó không cách xa như ở Mỹ. Vậy
không phải kinh tế tư bản tạo ra khoảng cách
giàu nghèo, mà chế độ xă hội, luật pháp ở
một nước cho phép tạo ra khoảng cách đó.
Người Mỹ có lúc chấp nhận chênh lệch
như thế, v́ có lúc họ đă bỏ phiếu cho
một đảng chủ trương cắt thuế cho
nhà giàụ Chắc v́ họ đă thấy khi kinh tế phát
triển cao nhất th́ khoảng cách giàu nghèo cũng tăng
lên như trong thập niên 1990 vừa qua chẳng hạn.
Nếu kinh tế phát triển cao th́
tất
cả mọi người hay ít nhất đa số
mọi người đều khấm khá hơn. Khi đó,
một hệ quả của nó là chênh lệch giàu nghèo tăng
lên, có thể chấp nhận được. Tới khi nào
đa số không chấp nhận cảnh chênh lệch, th́
họ sẽ thay đổi chính phủ để thay đổi
luật lệ về thuế, về quy cách làm ăn, để
những người nghèo nhất được nâng lên.
Thước
đo về công bằng xă hội của một hệ
thống kinh tế không phải là khoảng cách giàu nghèo, mà
là mức sống của những người nghèo
nhất. Nếu t́m cách giảm bớt sự chênh lệch
mà khiến những người nghèo lại nghèo hơn, thu
nhập hàng năm từ 15 ngàn xuống 12 ngàn chẳng
hạn, dù người giàu bị mất nhiều hơn
nữa, từ 500 triệu xuống 300 triệu, th́ thà
chấp nhận có chênh lệch c̣n hơn. Đó cũng là
một quan niệm về công lư của John Rawls, một
triết gia mới qua đời năm ngoái .
Chấp
nhận rằng trong xă hội nào chúng ta cũng không thể
tránh khỏi cảnh chênh lệch về tiền bạc,
về quyền hành, cũng như nhiều mặt khác, Rawls
đề nghị xă hội phải đặt ưu tiên
hàng đầu cho những người bị thiệt tḥi,
yếu kém nhất. Các nước tư bản đă
thực hiện được quy tắc đó chưa ?
Người ta vẫn đang căi nhau hàng ngày về vấn đề
này, không quốc gia nào dám tự xưng là ḿnh đă đạt
được mức lư tưởng. Nhiều
người sống trong xă hội tư bản cũng chán
v́ thấy những lư tưởng của ḿnh không thực
hiện được.
Xin
thú nhận rằng tôi cũng chán ngấy hệ thống
kinh tế tư bản, nhất là tư bản kiểu
Mỹ. Nhưng, cũng như các thể chế chính
trị dân chủ tự do, kinh tế tư bản nó
chỉ là một cái khung, cái sườn để tổ
chức đời sống, là một phương cách
sống chung. Trong cái khung đó, chúng ta được
tự do thay đổi và sửa chữa, kinh tế tư
bản có nhiều cơ hội sửa chữa hơn các
chế độ kinh tế, chính trị khác. Chấp
nhận sống với kinh tế tư bản chỉ v́
trong lịch sử cho tới bây giờ đó là cách tổ
chức xă hội tương đối đem lại
mức sống cao nhất cho nhiều người nhất
so với các hệ thống khác. Và những người
ở mức thấp nhất cũng c̣n khá giả hơn
nhiều cách tổ chức xă hội khác đă thử trên
trái đất này .
Canada
là một nước thường được xếp
vào loại "hạnh phúc" nhất thế giới v́
khi phỏng vấn người dân tỏ ra hài ḷng với đời
sống của họ nhất. Nhưng ở nước đó
người ta vẫn căi nhau hoài về vấn đề
công bằng xă hội, không bao giờ nghỉ, nhất là
ở xứ Québec tôi đă cư ngụ.
Mà
chắc nhân loại cũng không bao giờ ngưng thảo
luận những vấn đề đó!
Nhưng
so sánh những người giàu nhất với những
người nghèo nhất không chắc là cách đo
lường đúng t́nh trạng công bằng xă hội .Trong
các nước theo kinh tế tư bản, có một
lớp trung lưu, đó mới là thành phần đáng
lấy
làm
chuẩn để đo lường. Khi nào giai cấp
trung lưu đông hơn, tức là hố phân biệt giàu
nghèo tương đối đă giảm đi . Các xă
hội Âu châu, Bắc Mỹ đều có tầng lớp
trung lưu rất đông, chính là do kinh tế tư bản
tạo ra . Các nước Á châu mới lên từ 30 năm
nay cũng có một tầng lớp trung lưu phát triển
rất nhanh.
C̣n
ở các xứ tự coi là làm kinh tế theo lối xă
hội chủ nghĩa th́ sao ? Trong cuốn "Sử Trung
Quốc" của Nguyễn Hiến Lê, viết xong năm
1983 ở Sài G̣n, ông mô tả xă hội Trung Quốc
dưới chế độ cộng sản, thấy
sự phân biệt đẳng cấp c̣n xa cách và khắt
khe hơn thời phong kiến (Văn Nghệ mới
xuất bản ở California, năm 2003, trang 743-744.)
Từ Bộ Chính trị đảng Cộng Sản Trung
Quốc xuống tới thường dân có đến
bẩy cấp bậc phân ngôi thứ rơ ràng; mỗi cấp
bậc lại chia ra mấy tầng, được đăi
ngộ khác nhau . Nguyễn Hiến Lê nêu thí dụ mỗi
cấp bậc có nhà thương riêng, trong nhà thương đó
lại chia ra loại th́ được nằm pḥng riêng,
loại không, loại nào được dùng thuốc đắt
tiền, loại không, vân vân. Theo sách Tả Truyện th́ đời
Xuân Thu (hơn 700 năm trước Tây Lịch)
nước Trung Hoa cổ chia làm 10 giai cấp, tới
thời Trung Quốc Cộng Sản th́ có tới 30 đẳng
cấp khác nhau . Nhưng điều quan trọng không
phải là số đẳng cấp nhiều hay ít. Điều
thê thảm nhất là hệ thống đẳng cấp
trong chế độ cộng sản được
luật lệ quy định, không ai nhúc nhích được!
Không
những khác đẳng cấp th́ khác nhau về lợi
tức, về tài sản; ở các nước cộng
sản sự cách biệt về quyền hành mới là quan
trọng. Ở các xứ tư bản những
người có tiền th́ t́m cách để có quyền, và
phải cạnh tranh ráo riết với những
người có tiền khác. C̣n ở các nước cộng
sản ai có quyền mới có tiền, và quyền hành
thường không bị kiềm chế, tha hồ làm ra
tiền. Muốn thay đổi cảnh phân biệt giàu
nghèo ở xă hội tư bản tương đối
dễ hơn là muốn thay đổi cấp bực
quyền hành trong xă hội cộng sản. Ở xứ
tư bản chỉ cần làm một luật mới
về thuế vu.. Ở một xứ cộng sản
chắc phải đợi một ông Gorbachev!
Tôi
nhớ một bà bác sĩ ở Sài G̣n đă kể, bà đă
được chế độ cộng sản cho
tiếp tục làm việc sau năm 1975. Một lần bà
ra công tác ngoài Hà Nội, đến bữa cơm trưa bà
mời bác tài xế vào ngồi ăn chung bàn, theo lối
trước 1975 bà vẫn làm khi đi công tác ở miền
Nam. Nhưng bác tài nhất định từ chốị
Lúc đầu bà không hiểu tại sao, nhưng sau mới
biết là dưới chế độ xă hội chủ
nghĩa giai cấp tài xế có tiêu chuẩn ăn uống
khác với giai cấp bác sĩ! Ông tài xế thuộc bài,
không dám phá lệ!
Chế
độ cộng sản đă định chế hóa
bất công xă hội, cả về tiền bạc lẫn
quyền hành; trong khi xă hội tư bản coi bất công
là một biến chứng của cuộc cạnh tranh kinh
tế, họ luôn luôn t́m cách chữa chứng bệnh đó,
giảm bớt bất công. Khác với xă hội tư
bản, ai có tài th́ cứ làm giàu, trong xă hội cộng
sản những ai khéo làm theo ư cấp trên th́ được
lên cấp. Và đó là nguyên nhân gây ra tham nhũng, tŕ trệ,
khiến chế độ cộng sản sụp đổ.
Để
quư vị thưởng thức lối văn của tác
giả Nguyễn Phú Trọng, chúng tôi xin đăng nguyên văn
một đoạn trong phần đầu bài thuyết
tŕnh của ông liên quan tới bài này:
Tuy
nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt
tích cực nó c̣n có mặt trái, có khuyết tật từ
trong bản chất của nó do chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi
phốị Cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của
chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc,
không giải quyết được các vấn đề
xă hội, làm tăng thêm tính bất công và bất ổn
của xă hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa
người giàu và người nghèọ Hơn thế
nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay,
nó c̣n ràng buộc các nước kém phát triển trong quỹ
đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo
quan hệ "trung tâm - ngoại vi". Có thể nói,
nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống trị của
một số ít nước lớn hay là một số
tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa
số các nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn
giữa các nước giàu và các nước nghèo .