Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

Trở về trang chính

Xă Hội Chủ Nghĩa mang màu sắc TQ hay Tư Bản Chủ Nghĩa mang màu sắc TQ?

Chih Chia Hsu, Giáo sư phụ giảng Ban Báo chí Đại học Ming Chuan

Người dịch: Trương đăng Đệ

‘Some people in rural areas and cities  should be allowed  to get rich before others...To let some people and some regions become prosperous first is a new policy that is supported by everyone.’  

(Excerpt from a talk  with leading members of State planning Commission..., Jan. 12, 1983 ,  Deng Xiao Ping’s works, Vol III )

Lời người dịch: Trong cuộc cải cách kinh tế do Đặng Tiểu B́nh dề ra cho Trung quốc, có  một chính sách , mà chúng tôi trích dẫn ở trên , cho phép một số người ở các vùng thành thị  và ở một số vùng  được  giàu trước những người khác. Chính sách này đă góp phần đem lại nhiều thành quả lớn về kinh tế, nhưng một mặt khác nó cũng đang tạo thành một giai cấp mới mà chúng ta gọi là giai cấp tư bản đỏ ; giai cấp này chiếm phần lớn của cải trong nước, c̣n đại đa số dân chúng vẫn sống trong nghèo nàn . Điều này ngược hẳn với chủ trương ban đầu của ĐCS là xóa bỏ giai cấp và xây dựng một xă hội b́nh đẳng .

Chúng tôi dịch bài ' The increasing uneven distribution of wealth in Mainland China ' của giáo sư Chih trong  Peace & Forum Essays ngày 16/9/2002    để cống hiến các bạn đọc v́ có những điểm trong bài giống với t́nh h́nh Việt nam hiện nay. Chúng tôi cũng đổi tên của bài v́ theo ư chúng tôi, với  thuyết  ''ba đại diện'' của ông Giang trạch Dân, chế độ TQ đang hướng về một chế độ tư bản đặc biệt , hơn là một chế độ xă hội chũ nghĩa cũng đặc biệt mà ông Đặng tiểu B́nh gọi    '' mang màu sắc TQ '' ; cái đuôi '' mang màu sắc TQ '' , nói một cách đơn giản , chỉ có nghĩa là Đảng CS phải giữ vững sự lănh đạo của ḿnh  ( Deng Xiao Ping's works, vol. 3 ) để  độc quyền cai trị , giành mọi  quyền vá lợi cho đảng .

Hơn nữa TQ luôn luôn mang mộng bá quyền , đă chiếm nhiều hài đảo , hải phận và đất đai của ta nên mọi  xáo trộn , mọi biến chuyển làm TQ yếu đi là có lợi cho ta; ngược lại, mỗi thành công hay tiến bộ của TQ làm chúng ta phải lo lắng đề pḥng . Việc luật sư  Lê chí Quang viết bài  '' Hăy cảnh giác với Bắc triều '' biểu lộ bầu nhiệt huyết của anh đối với tổ quốc  và ḷng dũng cảm của một thanh niên  được mọi người yêu nước ngưỡng mộ và mến phục. Chỉ có những '' tôi tớ của ngoại bang '',  như Dương thu Hương nói, mới bắt giam và xử tù anh, v́  anh đă dám đụng chạm tới chủ của chúng.

Những số tiền trong bài của tác giả đều tính theo nhân dân tệ của TQ ; để các bạn đọc dễ hiểu , chúng tôi dă đổi ra MK theo hối suất ngày 10 /11/02  ( 1 MK = 8.2772 nhân dân tệ ) và bỏ đi các số lẻ. Những tài liệu mà giáo sư Chih tham khảo được in chữ nghiêng trong ngoặc đơn .

 

I - Mở đầu:

Trung hoa lục địa bắt đầu chính  sách cải cách sau phiên họp lần thứ 11 Đại hội Đảng lần thứ 3 vào cuối năm 1978. Hai thập niên sau đó, TQ đă trở thành một trong những nước có nền kinh tế phát triển nhanh nhất  trên thế giới. Những ước lượng mới nhất của  Ngân hàng Thế giới cho thấy ngày nay có GDP  ( tổng sản lượng quốc nội )  nhiều thứ 6 trên thế giới. Sự tăng trưởng về kinh tế đó đă làm cho TQ mạnh hơn, và Cộng đồng quốc tế đă  quan tâm nhiều hơn tới TQ và thị trường của hơn 1.2 tỉ người. Nhiều học giả và chuyên gia tin rằng TQ vẫn có nhiều triển vọng tốt về sự phát triển về kinh tế.

Trong khi nền kinh tế gia tăng, xă hội TQ đă thay đổi. Sau bề ngoài của sự lớn mạnh về kinh tế, xă hội TQ thực tế đang phải đương đầu với những thách đố quan trọng. TQ  có nhiều người thất nghiệp hơn bất cứ quốc gia nào khác trên thế giới, sự chênh lệch về  đời sống giữa các vùng đô thị và nông thôn cao hơn bất cứ quốc gia nào khác, sự chênh lêch về lợi tức tăng nhanh hơn bất cứ nơi nào khác, sự tham nhũng trầm trọng nhất trên thế giới, và việc gây tổn hại tới môi sinh trong qui mô rộng lớn nghiêm trọng hơn bất cứ nước nào khác. Trong khi sự  tăng trưởng về kinh tế c̣n tiếp tục, những điều trên đă góp phần phát sinh ra những vấn đề xă hội lớn. TQ đang đứng trước những khủng hoảng đi vào một thời kỳ bất ổn xă hội (Strategy and Management số 52 tháng 3, 2002 , tr 26 ).

Trong những hiện tượng khác nhau gây ra bất ổn xă hội, sự phân phối của cải ngày càng không đều lá một trong những thách đố  quan trọng nhất,  và làm chính quyền TQ lo lắng nhất. Mục đích đấu tiên của cuộc CM cộng sản là thành lập một  xă hội b́nh đẳng trong đó công nhân và nông dân sẽ là lực lượng chính, và sự áp bức giai cấp sẽ bị hủy bỏ . Thế nhưng ở TQ, người ta đă thấy  nẩy ra một '' hệ thống giai cấp mới'' dựa trên sự chênh lệch về của cải, và sự chênh lệch về lợi tức đang tệ đi một cách nhanh chóng. Đối với ĐCSTQ, một đảng mà người ta mong đợi rằng sẽ ủng hộ sự thống trị của giới vô sản, có một sự tương phản đáng xấu hổ giữa mục đích và sự thật. ( ND nhấn mạnh )

Sự phân phối của cải ngày càng bất b́nh đẳng có thể  xem xét bằng cách  dùng hệ số Gini về sự chênh lệch lợi tức. Trong bài này, việc phân tích  các thống kê sẽ được dùng để khảo sát kỹ vấn đề ngày càng quan trọng đó.

II  -   Hệ số Gini đang tăng đều 

Cộng đồng thế giới thường dùng hệ số Gini để đo sự bất b́nh đẳng trong việc phân phối  của cải. Một hệ số Gini dưới 0,3 biểu hiệu có b́nh đẳng trong cách phân phối của cải ; một hệ số Gini từ 0,3 đến 0,4 biểu hiệu sự phân phối có thể chấp nhận được ; một hệ số trên 0,4 biểu hiệu sự phân phối rất không b́nh đẳng , và một hệ số trên 0,6 có nghĩa là sự nghèo khổ cùng cực đi đôi với sự giàu có tột độ, có khả năng gây ra bất ổn xă hội. ( xem chú thích 1 của người dịch ở cuối bài).

Theo ước lượng của Ngân hàng Quốc tế, hệ số Gini của TQ vào năm 1981 là 0,28. Tới năm 1995, hệ số đó tăng lên 0,383. Tuy đó vẫn c̣n là mức bất b́nh đẳng  có thể chấp nhận được, hệ số ấy  đă gần tới mức nguy hiểm . Quan trọng hơn nữa là hệ số Gini bây giờ của TQ tăng nhanh hơn hầu hết  các nước khác trên thế giới. Theo một cuộc khảo sát rộng răi do Ban Khoa học Xă hội ở Đại học  Nhân Dân thực hiện th́ vào năm 1994, hệ số Gini về sự chênh lêch giữa dân thành thị và dân ở nông thôn đă lên tới 0,434 , trong vùng nguy hiểm.

 Những thống kê chính thức của TQ dè dặt hơn, nhưng ngay chính quyền TQ cũng phải nh́n nhận rằng vào năm  2000, hệ số Gini đă vượt quá '' mức báo động xanh '' 0,4, giữa 0,4 và 0,43 ( China Times 20/6/ 2001, tr 13 ). Theo một cuộc nghiên cứu  được Hàn lâm viện Khoa học TQ thực hiện th́ nếu các lợi tức bất hợp pháp   được cộng thêm vào để tính th́ hệ số Gini thực ra đă quá 0,5 ( Beijing Zhi Chun, 5/ 2002, tr 17  ). Nói cách khác, sự phân chia của cải ở TQ đă rất không đều, và sự chênh lệch giữa giàu vả nghèo đang tăng đều đặn.

 

III  -   Chênh lêch về lợi tức đang tăng đều đặn 

Theo thống kê không chính thức,  tổng số các khoản tiền gửi ngân hàng ở TQ vào năm 2000 lên tới gần                  725 tỉ MK, trong đó 80% là của dưới 20% người gửi ( United Daily News 23/3/01 , tr 13 ). Nói cách khác , phần lớn của cải được tập trung vào một thiểu số người .

Sự gia tăng hệ số Gini nói ở trên phản ánh t́nh trạng về khoảng cách giữa giàu và nghèo nói chung đang tên hơn . Nh́n về lợi tức thực sự th́ lại càng thấy rơ hơn t́nh h́nh đó xấu đi nhanh chóng thế nào :

1)   Chênh lệch  giữa các vùng thành thị và nông thôn.

Luăt đăng kư các hộ ở TQ chia dân chúng thành những dân ở thành thị và những dân ở nông thôn. Từ đầu cải cách, sự chênh lệch về lợi tức giữa dân thành thị và dân quê dần dần tăng lên.. Theo thống kê chính thức, vào năm 2001 lợi tưc trung b́nh hàng năm của dân thành thị là  830 MK ( con số này đang gia tăng với tỉ lệ 8,5% , trong khi lợi tức trung b́nh hàng năm của dân quê chỉ là 285 MK, tăng với tỉ lệ 4,2% ( Central News Agency 7/3/2002 ) .

Với những con số trên, ta có thể thấy lợi tức trung b́nh hàng năm của dân thành thị gần gấp 3 của dân quê, và tỉ lệ tăng trưởng vè lợi tức của dân thành thị hơn gấp 4 lần tỉ lệ tăng trưởng lợi tức của dân quê. Điều này cho thấy một sự chênh lệch đáng kể, và sự chênh lệch này có vẻ đang tăng thêm .

Nói về măi lực, sự chênh lệch giữa dân thành thị và dân quê thực ra c̣n lớn hơn. Theo một cuộc nghiên cứu của ông Lin Yifu, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về Kinh tế TQ tại Đại học Bắc kinh, lợi tức trung b́nh của dân quê vào năm 1998 bằng lợi tức trung b́nh của dân thành thị vào năm 1991, và hơn nữa, nói một cách tương đối, không được nửa số dân quê vào năm 1998 có TV màu và tủ lạnh so với dân thành thị vào năm 1991 ( China Times, 14/3/2001, tr 11 ). Nói cách khác, tiêu chuẩn về mức sống của dân quê c̣n dưới xa  mức sống của dân thành thị..

Một  cuộc nghiên cứu về các mức lợi tức do Hàn lâm viện Khoa học Xă hội TQ và Trung tăm Nghiên cứu  của Hội đồng Quốc gia thực hiện vào năm  2001 cho thấy rằng, nếu  ta so sánh mức lợi tức của dân thành thị và cũa dân quê trong cùng một vùng, th́ tỉ lệ giữa hai mức đó từ 5:1 đến 25:1 ( Zheng Ming 4/2002 , tr 18 ) . Nói cách khác, tại một vài vùng, lợi tức của dân thành thị lớn hơn lợi tức của dân quê tới 25 lần. Một cuộc khảo cứu  về 20 000 dân thành thị   do Trung tâm  Kiểm soát về sự  Phát đạt về kinh tế của TQ thực hiện vào năm 2001 cho thấy mức lợi tức  và mức tiêu thụ của dân quê tụt hậu 10 năm so với dân thành thị  ( '' Analysis of Social Trends in China  2001-2002, and Forecasts '' , Lu Jianhua )  

Một cách cụ thể hơn , cuộc nghiên cứu do Liu Liu Wei, giáo sư  cộng tác ở trường Cao đẳng Kinh tế tại Đại học Sư phạm Bắc kinh, cho thấy tài sản của 50 người giàu    có lợi tức thực - nghĩa là  sau khi đă trừ thuế (net income  ) -  ngang với  tài sản của 5000  dân quê, và tài sản của  3 triệu  người triệu phú ở TQ bằng lợi tức thực của  900 triệu dân quê trong 2 năm  ( China Times 20/5/2001, tr 11 ).  Các học giả ước lượng  đă có hơn 3 triệu người triệu phú ở TQ ; nói cách khác,  tài sản của một số bách phân rất nhỏ dân số   lớn hơn lợi tức của toàn thể dân vùng nông  thôn  ( gồm đại đa số  dân chúng ) ; sự chênh lệch giữa giàu và nghèo ngày càng xấu đi một cách nhanh chóng.

Dân các vùng nông thôn TQ phải đương đầu với một vấn đề  chủ yếu, đó là lợi tức thấp của họ  ; nói cách khác, sự nghèo khó rất phổ biến . Những thống kê chính thức cho thấy 50% số hộ  vùng quê có lợi tức ít hơn 242 MK một năm ( China Times 20/5/2001 ). Nói cách khác ,  đại đa số dân quê bị ch́m đắm trong cảnh bần cùng.

 

2)   Chênh lệch về lợi tức giữa các dân thành thị

 Sự chênh lệch về lợi tức không những có giữa nông thôn vả thành thị  , mà ngay  giữa dân trong các thành thị ,  sự chênh lệch này cũng rất lớn.

Hiện có chừng 30 triệu dân các thành thị sống trong bần cùng, con số này chiếm từ 7% đến 10% dân số không phải ở vùng quê ( United Daily News 12/3/2002 , tr 13). Nói cách khác, gần 1/10 dân thành thị sống trong nghèo nàn. Nếu so sánh lợi tức của người nghèo và của người giàu trong các thành thị, sự chênh lệch lại càng rơ.

Thống kê chính thức  cho biết là tại các thành phố ở TQ,  người giàu ngày càng giàu trong khi người nghèo ngày càng nghèo ; chênh lệch giàu nghèo đang tăng. Vào năm 2000, các hộ có lợi tức thấp là vào khoảng 10% dân thành thị , tổng số lên tới 45 840 000 người. Lợi tức trung b́nh hàng tháng của họ là 27 MK. Trong khoảng thời gian 1996-2000, tỉ lệ tăng trưởng về lợi tức trung b́nh và chi tiêu trung b́nh đối với các hộ nghèo nhất theo thứ tự  là 1.2% và 1.6% ; tỉ lệ  tăng trưởng của các hộ có lợi tức cao nhất là 9.7%  và 9.3% ( '' The social Instability behind Economic Prosperity '', Wang Shaoguang và....tr 30 ).

Nói cách khác , sự tăng trưởng rất hạn chế đối với các hộ nghèo ở thành thị, và chi  tiêu của  họ tăng nhanh hơn lợi tức, đời sống của họ đang khó khăn hơn. Mức tăng trưởng  về lợi tức của các hộ có lợi tức cao  lớn hơn 8 lần  mức của các hộ nghèo nhất, và lợi tức của họ tăng nhanh hơn số chi tiêu của họ, như vậy có nghĩa là họ có thể  để dành tiền và trở nên giàu có hơn,

Nói chung,  sự chênh lệch về của cải trong các thành pbố đang tăng, và tăng nhanh ; vấn đề phân phối  không đều  của cải ngày càng trầm trọng hơn.

 

3) Chênh lệch giữa các nghề nghiệp

        Ngoài sự chênh lệch về lợi tức  giữa thành phố và nông thôn, giữa dân trong các thành phố, sự chênh lệch giữa giữa các nghề nghiệp cũng đang tăng.

        Theo một cuộc nghiên cứu do mạng lưới Zhonghua Ying của TQ thực hiện, những công ty ngoại quốc  hoạt động tại TQ có tiền lương trung b́nh cao nhất : 6435 MK một năm.  Ngành công nghệ có lương trung b́nh cao nhất là công nghệ viễn thông, 6911 MK , theo sau là công nghệ  về hàng hóa  tiêu thụ nhanh ( thực phẩm, nước uống, thuốc lá ) với 5892 MK, và công nghệ về  máy điện toán và internet với 5470 MK.  Điện thương ( E-commerce ) , dịch vụ tư vấn, tài chính và bảo hiểm, kỹ thuật về sinh học ( biotechnology)  và điện tử  theo thứ tự đứng từ hàng 4 đến hàng 8 . Công chức chính phủ đứng hạng chót với  lương trung b́nh hàng năm là 2174 MK.

        Do những thống kê trên, người ta có thể thấy rằng trong 34 loại công nghệ khác nhau tại TQ,  tiền lương trung b́nh cao nhất  nhiều gấp 3 lần tiền lương thấp nhất . Tuy nhiên, theo thống kê chính thức của chính phủ, sự chênh lệch c̣n cao hơn thế.

       Các thống kê của nhà nước tại thành phố Bác kinh chia công nhân thành phố thành 86 hạng. Lương trung b́nh trong những công nghệ  trả lương cao nhất  nhiều gấp 6.6 lần các công nghệ trả ít lương nhất. Những công nghệ  trả lương trung b́nh cao nhất  là về điện toán và những dịch vụ  áp dụng, về tài chính và cao kỹ, và về đại lư thương mại ( Beijing Chenbao 26/3/2002).

4)         Chênh lệch giữa các tŕnh độ học vấn

Dù trong thời CM Văn hóa, chính quyền TQ đánh gíá các trí thức như là hạng '' thứ 9 hôi thối '' ( stinking ninth), hạng thấp nhất trong xă hội, từ khi cải cách bắt đầu, học vấn đă trở thành một biểu thị quan trọng cho mức lợi tức. Các cuộc nghiên cứu cho thấy  tŕnh độ học vấn càng cao th́ mức lợi tức càng lớn.

Một cuộc nghiên cứu của  mạng lưới Zhonghua Yingcai cho thấy với sự cách biệt về tŕnh độ học vấn, cứ  cách nhau một cấp th́ có  sự chênh lệch về lợi tức  hàng năm là  1208 MK. Tiền lương trung b́nh hàng năm  là 7506 MK cho cấp tiến sĩ, 7470 MK  cho cấp cao học ( phó tiến sĩ) , 5277 MK  cho những người tốt nghiệp đại học, 3642 MK cho những người tốt nghiệp cao đẳng cấp dưới ( junior college graduates), 2508 MK  cho những người dưới mức cao đẳng, và 9948 MK cho những người có cử nhân về quản lư Kinh doanh (MBA ) ( Beijing Chenbao 6/3/2002 ).

Trong khi sự chênh lệch giữa tiến sĩ vá cao học  không nhiều, th́   giữa tŕnh độ cao học, tiến sĩ và trên nữa, giữa tŕnh độ đại học và cao đẳng cấp thấp  có sự chênh lệch đáng kể.

Lương trung b́nh của những người có trinh độ cao học hay hơn nữa lớn hơn 3 lần lương những người ở cấp thấp hơn tŕnh độ cao đẳng , và sự chênh lệch tiếp tục tăng.

5)         Chênh lệch về vùng

         Mức lợi tức cũng thay đổi rơ ràng từ vùng này qua vùng khác. Nói chung những vùng  bờ biển Đông TQ có lợi tức cao hơn ở các vùng  ở giữa hay Tây TQ.

       Những ước lượng của Cục Thống kê Quốc gia cho thấy vào năm 1999, 615.6 triệu dân ở TQ, hay 60% dân số được hưởng một tiêu chuẩn  về mức sống khá dễ chịu (2). Tuy nhiên, trong số đó th́ có 460 triệu người sống ở miền Đông, gồm 90% dân số trong vùng . Ỏ miền Tây TQ , số có tiêu chuẩn mức sống tương đối khá dễ chịu chưa bằng 1/2 dân số ( Xingdao Ribao 25/11/2001 ,tr  A 14 ) . Nói cách khác,  ở miền Đông, 1/10 dân bị nghèo khổ ; phần lớn dân nghèo tập trung ở  miền Trung và miền Tây TQ. Các tiêu chuẩn về mức sống trung b́nh ở miền Đông hơn hẳn ở miền Trung và miền Tây TQ.

       Vào năm 2001, Cục Thống kê của chính phủ tại thành phố Bắc kinh thực hiện một cuộc so sánh lương các công nhân ở 5 thành phố chính Bác kinh, Thiên Tân, Thượng hải, Trùng Khánh và Quảng châu. Thành phố có  mức lương trung b́nh cao nhất  2751 MK là Quảng châu.Thượng hải đứng thứ nh́ với 2631 MK; tiếp theo là Bác kinh với 2314 MK và Thiên tân với 1729 MK. Trùng khánh mà người ta hy vọng sẽ đứng đầu kế hoạch '' Mở mang miền Tây vĩ đại '' chỉ có  mức lương trung b́nh hàng năm là  1151 MK. Lương trung b́nh ở các thành phố chính  cao hơn ở các thành phố nhỏ rất nhiều ; lương trung b́nh tại các thành phố  vùng duyên hải Đông  TQ cao hơn ở các thành phố lớn ở các miền Trung và Tây.

      Nếu ta chia TQ thành ba phần Đông , Trung và Tây th́ miền Đông có mức lợi tức cao nhất, sau đó là miền Trung, miền Tây đứng hạng chót. Và sự chênh lệch đó c̣n đang tăng. Các thống kê cho thấy trong giai đoạn 1987-1995, lợi tức trung b́nh trong các tỉnh mà người dân thành thị có  mức lợi tức cao nhất  tăng 1,72 lần, trong các tỉnh mà  dân thành thị có mức lợi tức thấp nhất  tăng 2.6 lần ; nói một cách  rơ ràng, lợi tức hàng năm ở các tỉnh đó đă tăng từ  63 MK tới  575 MK. Vào năm 1996 , trong các hộ ở thành thị  nói trên mà lợi tức hàng năm cao hơn  12 081 MK, th́ 55% sống ở Quảng đông,, và 9.41% ở Thượng hải ; tỉ số bách phân sống ở  Thiểm Tây, Giang tây, Quư châu và Thanh hải rất nhỏ. ( '' Equality & Efficiency - The problem of Income disparity in Contemporary China '', tr 21, 22  , Yang Yiyong et al.   ) . Các thống kê cho thấy sự phát triển về kinh tế của TQ có lợi cho miền Đông nhiều hơn các miền khác rất xa . Của cải tập trung tại các vùng duyên hải Đông TQ, các miền Trung và Tây  tương đối c̣n nghèo.  Hơn nữa, sự chênh lệch đang tăng.

       Tuy từ vài năm gần đây, chính quyền TQ  đang đẩy mạnh kế hoạch '' Phát triển miền Tây vĩ đại '', phải cần một thời gian nữa  mới có thể thực hiện được một bước cải thiện đáng kể trong sự chênh lệch về lợi tức theo bậc thang nói trên .

 IV  -   Kết luận

        Qua cuộc phân tích trên, ta có thể thấy sự chênh lệch về của cải tại TH lục địa đă ở trong vùng nguy hiểm được quốc tế công nhận . Sự  phân phối không đều của cải ở TQ  xấu hơn hầu hết các quốc gia khác trên thế giới ; đối với một chế độ cộng sản mà người ta mong đợi là phải coi trọng sự b́nh đẳng về giai cấp, điều này làm chính quyền rất lúng túng .

       Sự phân phối không đều của cải được phản ánh trong sự chênh lệch lợi tức  ngày càng phổ biến, bao gồm  sự chênh lệch giữa  các vủng thành thị và nông thôn,  giữa các vùng  với nhau, giữa  các công nghệ, và giữa tŕnh độ học vấn. Một  cấu trúc về giai cấp mới đang dần  dà thành h́nh. Cùng lúc khi TQ đang c̣n hàng chục triệu dân nghèo và đa số lớn dân quê có lợi tức hàng năm dưới  242 MK th́ lại sản xuất ra  được trên 3 triệu người triệu phú  . Từ quan  điểm  phát triển về kinh tế, chính sách cải  cách  hơn 20 năm qua đă tạo ra một phép lạ về tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, nhưng từ quan điểm xă hội, cái phép lạ lại là tốc độ mà chính quyền đă  tạo ra một sự bất b́nh đẳng xă hội mới. ( ND nhấn mạnh )

     Các viên chức chính quyền và các học giả nhận thấy sự phân phối bất b́nh đẳng của cải ngày càng xấu đi một cách nhanh chóng, và đă đưa ra một loạt cảnh báo là nhà nước cần phải ngăn ngừa không cho t́nh trạng  tệ đi . Tuy nhiên, một số lớn lợi tức  cá nhân ở TQ được che dấu, và một vấn đề trầm trọng về tham nhũng và hoạt động bất hợp pháp  làm tăng thêm  mức bất công trong việc phân phối  của cải. Tại các thành thị,  thất nghiệp đang tăng trong khi ở nông thôn, lợi tức  nhà nông chỉ tăng thêm  một cách rất chậm . Tất cả  những nhân tố đó hợp lại làm sự phân phối  không đều  cuả cải  tăng thêm ( Central  Newa Agency 22/8/2001  ). Sự  phân phối  bất b́nh đẳng của cải không chỉ là sản phẩm của chính sách phát triển kinh tế mà c̣n có liên quan tới tham nhũng, điều này làm cho vấn đề  tệ hơn.

        Việc phân phối không đều của cải  đang có ảnh hưởng tiêu cực tới sự ổn định xă hội ở TQ. Các nông dân nghèo đang xuống đường biểu tính ( '' Second-class citizens : The impoverished state of China's farmers '' , Chih-Chia Hsu , Dalu Gonzuo Jianbao 9/2001 ). Các học sinh nghèo  đang gặp khó khăn để tiếp tục sự học ( ''The difficulties facing students wishing to continue their education ''  id.  6/2002  ). Công nhân thất nghiệp đang tổ chức các cuộc biểu t́nh lớn ( ''Workers' demonstrations reach fever pitch''  id  3/2002 ). Các trọng tội gia tăng . TQ đă trở thành một xă hội mà sự phân phối của cải ở mức bất b́nh đẳng  rất cao, và nhiều vấn đề khác nhau do t́nh trạng trên phát sinh đang được phản ánh qua những thách thức đối với trật tự xă hội.

       Điều làm lo ngại hơn nữa là sự phân phối của cải không đều ở TQ đă tới mức khá trầm trọng có thể đe dọa sự ổn định của xă hội.  Chính quyền c̣n đang đặt ưu tiên cho sự phát triển kinh tế . Tuy chính quyền đă  bày tỏ mối quan tâm nhưng họ chưa có nỗ lực  nghiêm túc để giải quyết vấn đề.

      Một cuộc nghiên cúu của các viên chức trung cấp cho thấy trong các chính sách khác nhau được thi hành vào năm 2001 th́ có ba chính sách  mà mức độ thực hiện chưa tới 10% . Đó là việc giảm  mức chênh lệch về lợi tức, giảm gánh nặng của nông dân , và giải quyết nạn thất nghiệp ( '' Officials views on the state of society in 2001-2002 ''  Xie Zhiqiang, China in 2002  : Social trends and forecasts,   tr 31  ).

        Giới lănh đạo TQ  hiện đang tiến hành việc chia sẻ quyền lực trong Đại hôị Đảng lần thứ 16. Những  người lănh đạo mới sắp nắm giữ quyền hành sẽ thấy là họ phải đối phó với cuộc khủng hoảng xă hội do việc phân phối của cải không đều ngày càng xấu gây ra . Họ sẽ cần phải mạnh dạn giải quyết vấn đề để t́m được câu giải đáp nếu họ muốn bảo đảm  sự ổn định xă hội và sự phát triển kinh tế ở TQ.

 

Ở trên bài của giáo sư Chih đă hết . Chúng tôi thêm một đoạn dựa theo bài '' The Yin and the Yang of Jiang '' ( Mặt âm và mặt dương của Giang ) do  phóng viên Geoffrey York, trưởng  văn pḥng của báo Globe  tại Bắc kinh viết và được đăng trong tờ Globe and Mail , Canada ngày 13/11/2002 để nói về:

Tương lai của TQ

Theo ông G. Geoffrey th́ thời gian dưới sự lănh đạo của ông Giang trạch Dân đă tốt cho TQ nhưng không tốt  nhiều cho người dân TQ. Có hai  giả thiết có thể xảy ra trong tương lai :

1)   Những người lạc quan  th́ biện luận rằng , với sự tiến bộ về kinh tế,  ông Giang đă đưa TQ theo đường hướng Singapore va Mă lai, tại các quốc gia này sự độc đoán về chính trị đi đôi với sự gia tăng tự do về xă hội và kinh tế.

2)    Các người bi quan  lại thấy một sự tương tự khác . Họ muốn nói tới Nam dương: ở đây, nền kinh tế đă tăng  trưởng nhanh chóng trong 30 năm dưới sự cai trị độc tài của ông Soharto, nhưng  đă suy đi khi chế độ không đối phó  được những cuộc xuống đường phản đối và sự bất măn của dân chúng v́  sự bất b́nh đẳng  gia tăng , và chế độ của ông Soharto đă sụp đổ - một số phận sẽ có thể xảy ra với đảng CS TQ một ngày nào đó nếu  mặt trái di sản của ông Giang không được quan tâm tới.

 

Chú thích       

1)  Hệ số Gini được nhà thống kê Ư Corrado Gini  lập ra và thường được dùng để đo mức bất b́nh đẳng về lợi tức của một xă hội .

     Hệ số đó là một con số nằm giữa 0 và 1 ; 0 chỉ sự  b́nh đẳng hoàn toàn ( mọi người đều có lợi tức ngang nhau ), và 1 chỉ sự bất b́nh đẳng hoàn toàn ( một người có tất cả lợi tức, trong khi mọi người khác không có ǵ cả. ). Hệ số Gini  ở Canada và các nước Âu châu trên dưới 0,3  ;  tại Á châu, hệ số đó  vào khoảng 3,5 ở Nhật  và vài nước , trong khi lên tới 0,4 ở một số nước khác ; đại đa số quốc gia ở châu Phi và Nam Mỹ  có hệ số lên quá 0,45 ; ở Hoa kỳ  hệ số là 0,4 vào những năm 1990.

2)  Một tiêu chuẩn tương đối dễ chịu ở TQ là  800 MK một năm ( Building a socialism with a specifically Chinese character    30/6/1884  , Deng Xiao Ping's works Vol . ÌI )

 14/11/2002

 

Trở về trang chính