Cải
Cách Ruộng Đất tại miền Bắc 1953 – 1956
Nhóm Học Tập biên
soạn
Viết theo dữ
kiện lấy từ:
- Án Tích Cộng Sản
Việt Nam (2001), Trần Gia Phụng
- Từ Thực Dân
Đến Cộng Sản (1964), Hoàng Văn Chí
- Trăm Hoa Đua Nở
Trên Đất Bắc, Hoàng Văn Chí
- Đêm Giữa Ban Ngày,
Vũ Thư Hiên
- Mặt Thật, Bùi Tín
1. Bối cảnh xảy
ra đấu tố cải cách ruộng đất
Chiến dịch CCRĐ
xảy ra vào giai đoạn mà đảng Cộng Sản
Việt Nam đă củng cố được địa
vị lănh đạo và quyền lực . Đi
ngược thời gian, chúng ta thấy sau khi cướp
được chính quyền vào năm 1945, đảng CSVN
đă tiêu diệt các lực lượng và đảng phái
quốc gia cũng như CS khác từ năm 1946 . Trong giai
đoạn từ 1946 đến 1950 th́ đảng CSVN
bị tách biệt với phong trào CS Quốc Tế, không
thể nhận sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung
Quốc và v́ c̣n yếu nên c̣n cần sự hợp tác
của các thành phần không cộng sản trong hàng ngũ
Việt Minh . Khi đảng CS Trung Quốc chiếm
được chính quyền tại Trung Quốc tháng 10 năm
1949, biên giới Việt Nam – Trung Hoa thông thương
được . CSVN được CSTQ viện trợ khí
giới, cán bộ huấn luyện . Lúc đó đảng
CSVN cũng đă nắm vững t́nh h́nh trong nước nên
có thể thi hành biện pháp có tính cách cộng sản mà
trước đây đảng CS chưa thể làm v́
chưa đủ sức chống đỡ với sự
phản đối của quần chúng và các tổ chức
không theo CS .
Chiến dịch cải
cách ruộng đất và một số các chiến
dịch thuộc vào giai
đoạn hai trong sách lược cách mạng vô sản của
đảng Cộng Sản: giai đoạn đầu là
Cách Mạng Dân Tộc Dân Chủ Nhân Dân, giai đoạn hai
là giai đoạn Cách Mạng Xă Hội Chủ Nghĩa .
Chỉ từ giai đoạn hai trở th́ th́ các
đặc tính của CS mới lộ ra .
2. Các hoạt động
liên quan đến ruộng đất
Các hoạt động có liên quan đến
ruộng đất theo thứ tự thời gian như
sau:
2.1 Sắc lệnh
giảm tô 1949:
Sắc lệnh số
78/SL, 14-7-1949, giảm tô, chủ điền giảm tô cho tá
điền từ 25% đến 35%, lấy ruộng
đất của điền chủ người Pháp và
người Việt bị ghép tội Việt gian chia cho
nông dân .
2.2 Các sắc lệnh
giảm tô và tịch thu ruộng đất 1950:
Sắc lệnh số
89/SL, 22-5-1950: xóa bỏ hợp đồng vay nợ
giữa chủ điền và tá điền trước
1945, nếu món nợ sau 1945 th́ chỉ phải trả vốn
mà không phải trả lăi .
Sắc lệnh 90/SL,
22-5-1950: tịch thu ruộng đất bỏ hoang quá 5
năm tính đến ngày ra sắc lệnh . Đất
tịch thu chia cho nông dân cày cấy trong thời hạn 10
năm, 3 năm đầu miễn thuế . Ruộng
bỏ hoang chưa đến 5 năm th́ phải cho
những tập đoàn nông dân cày cấy lại hoặc cho
người khác thuê cày . Sắc lệnh này không áp dụng
cho đất đai trồng cây kỹ nghệ hoặc
đất đai của những người v́ phục
vụ cho Việt Minh nên không thể trồng trọt .
2.3 Sắc lệnh
giảm tô 1953
Sắc lệnh ngày
20-4-1953, giảm thêm giá thuê đất 25%, để
tổng số phí tổn của tá điền không quá 1/3
hoa lợi .
Sau năm 1951, đảng
CSVN đưa người qua Trung Quốc để
học tập cách cải cách ruộng đất rồi
về nước phát động giảm tô, giảm
tức . Theo Nguyễn Văn Trấn, đă tham gia công tác
thí điểm tại Thanh Hóa, th́ không thành công lắm v́
gặp sự chống đối của nông dân .
2.4 Đấu tố
đợt một 1953
Giai đoạn này
được bắt đầu năm 1952 với 6 xă thí
điểm ở huyện Đại Từ, Thái Nguyên
rồi sau đó chính thức thực hiện vào giữa
năm 1953. Chiến dịch làm đầu tiên ở 47 xă
tỉnh Thái Nguyên và 6 xă tỉnh Thanh Hóa rồi sau đó lan
ra các tỉnh miền Bắc . Các tỉnh gần vĩ
tuyến 17 th́ không có đấu tố, giết chóc
để tiếng đồn không lan xuống miền Nam
và để người dân đừng chạy xuống
phía Nam . Qua đến đầu năm 1954 th́ dừng
lại khi sắp thi hành hiệp định Genève
để người dân đừng sợ hăi thêm mà
bỏ vào miền Nam rồi qua năm 1955 lại bắt
đầu CCRĐ trở lại .
Cuốn phim Chúng Tôi
Muốn Sống của đạo diễn Vĩnh Noăn
thực hiện tại miền Nam sau năm 1954 kể
lại vụ đấu tố ở giai đoạn
trước khi chia đôi đất nước, nghĩa
là thuộc đợt xảy ra vào trước năm 1954 .
Kết cục trong phim là những kẻ từng tham gia
Việt Minh kháng chiến chống Pháp phải bỏ
miền Bắc mà đi vào miền Nam v́ thấy không
sống nổi dưới chế độ như vậy
.
2.4.1 Ủy Ban Cải Cách
Ruộng Đất:
Gồm hai cấp, cấp
trung ương và cấp địa phương .
· Cấp
trung ương:
o Chủ
Tịch: Trường Chinh, Tổng Bí Thư đảng Lao
Động .
o Phụ
tá: Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương (cả 2
đều là Ủy Viên Bộ Chính Trị) và Hồ
Viết Thắng . Hồ Viết Thắng, là người
đă đi học tại CHNDTH, trực tiếp
điều hành theo lệnh của Trường Chinh .
· Cấp
địa phương:
Những người
đă được đào tạo về CCRĐ
được bổ về các tỉnh .
Trung b́nh mỗi tỉnh có
10 đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100 cán bộ . Đoàn
trưởng nhận lệnh trực tiếp từ Ủy
Ban Cải Cách, không qua hệ thống đảng và chính
quyền địa phương .
Mỗi đoàn chia ra thành
nhiều đội . Mỗi đội có khoảng 6 – 7 cán
bộ . Đội trưởng được chọn
trong số bần nông hay bần cố nông, nhất là
những người đă từng tham gia CCRĐ
trước đây . Đội có quyền hành tuyệt
đối chỉ nhận lệnh từ Ban Cải Cách
Ruộng Đất v́ thế có câu “nhất đội, nh́
trời” . Phương châm thi hành là “Thà chết mười
người oan c̣n hơn để sót một địch”
.
2.4.2 Nội dung sắc
lệnh
· Tịch
thu ruộng đất của người ngoại
quốc, những người bị gọi là Việt gian,
“địa chủ phản động” và “phú hộ ác ôn” .
· Ruộng
đất của những người hợp tác với
Việt Minh th́ được trung thu, mỗi năm bồi
thường 1.5% trị giá đất . Ai bán, sang,
chuyển nhượng để trốn tránh bị
trưng thu sẽ bị tịch thu và bồi thường
bằng tín phiếu ngân hàng . Trung nông đă mua các ruộng
này sẽ phải bán lại cho nông dân nghèo không có ruộng
với giá chỉ định .
· Các
cơ sở tôn giáo như chùa, nhà thờ chỉ
được giữ một số đất đai và
phải tự cày cấy . Điều này có nghĩa có
nhiều chùa và nhà thờ sẽ bị mất ruộng
đất nếu có nhiều hơn số qui định .
Điều này là chùa và nhà thờ mất đi bớt
phương tiện hoạt động .
· Việc
thực hiện được giao cho Nông Hội, một
thành phần của Mặt Trận Liên Việt . Ṭa Án Nhân
Dân sẽ được thiết lập để
trừng phạt những kẻ chống đối .
2.4.3 Diễn tiến
của chiến dịch đấu tố
2.4.3.1 Bắt rễ sâu
chuỗi
Để chuẩn bị
cho các cuộc đấu tố, các cán bộ CCRĐ
được gửi về các làng, xă thực hiện
chính sách Tam Cùng, Thăm Nghèo Hỏi Khổ, rồi Bắt
Rễ Sâu Chuỗi .
Tam Cùng:
Tam Cùng là cùng làm việc,
cùng ăn và cùng ngủ chung . Các cán bộ đi vào làng quan sát ai là thành
phần nghèo khổ, giả vờ xin vào ở chung mà không
cho biết ư định của ḿnh rồi phụ làm
việc, ăn chung, ngủ chung để làm thân .
Thăm Nghèo Hỏi
Khổ:
Sau khi gây được
thân t́nh th́ hỏi thăm t́nh cảnh, khêu gợi
người nông dân thổ lộ nỗ khổ của ḿnh
. Từ đó dọ ư và khêu gợi ḷng căm thù những
kẻ giàu có trong làng . Đồng thời các cán bộ
cũng dọ hỏi tin tức về các gia đ́nh, các cá
nhân trong làng trong nhiều năm qua để biết ai
được xếp vào loại kẻ thù, ai có thể
bênh kẻ thù, ai là có thể là người đứng ra
đấu tố kẻ thù . Các chi tiết như phụ
nữ nào lúc trẻ có quan hệ với địa chủ
được xử dụng để sau này ép các phụ
nữ đó tố địa chủ đă cưỡng
hiếp ḿnh . Tin tức về những ai từng làm thuê cho
địa chủ sẽ được dùng để sau
này dùng để bị ép người làm thuê tố
địa chủ đă đánh đập, bạc đăi
ḿnh . Các vụ tai nạn như chết đuối,
chết v́ bệnh hoạn trong làng dù không liên quan
đến địa chủ cũng có thể dùng
để vu cáo cho địa chủ v́ ác tâm mà gây ra .
Bắt Rễ, Xâu
Chuỗi:
Những kẻ nào sau khi
được khêu gợi ḷng căm thù mà mang tâm trạng
muốn trả thù được xếp vào loại Rễ
. Cán bộ dùng Rễ để giới thiệu thêm
những kẻ khác cũng nghèo khổ và mang tâm trạng
căm thù tạo thành xâu chuỗi một nhóm những
kẻ căm thù, đồng ḷng trả thù địa
chủ . Nhiều thành phần bất hảo, vô đạo
đức trong làng đă hưỏng ứng lời thúc
dục trả thù này . Việc Rễ giới thiệu thêm người
được cán bộ giới hạn chỉ vài ba
người và kiểm soát kỹ để đừng
lọt vào những kẻ mà sau này có thể phản
đối hành động đấu tố .
2.4.3.2 Phân định thành
phần:
Sau khi thu thập
đủ tin tức về làng đó, các cán bộ báo cáo
kết quả trong một phiên họp bí mật của
Đoàn CCRĐ tỉnh . Cán bộ làm việc điều
tra đưa ra đề nghị là những ai trong làng
sẽ bị qui là địa chủ, gán ghép người
nào tội ǵ cho họ . Khi được cấp tỉnh
chấp thuận th́ Đội CCRĐ công khai phát
động chiến dịch trong làng đó .
Bắt đầu
chiến dịch CCRD là Ủy Ban Hành Chính Xă và Chi Bộ
Đảng bị giải tán, Ban CCRĐ có toàn quyền hành
động trong làng . Các bần cố nông nằm trong Nông
Hội được Đội CCRĐ núp sau giựt dây
sai làm để làm ra vẻ phong trào CCRĐ là của nhân
dân đứng ra làm chứ không phải của chính quyền
. Cổng làng được đóng lại, có công an canh
gác, chỉ những ai có giấy phép mới được
ra vào . Các làng ở miền Bắc thường
được bao bọc bằng lũy tre xanh nên khi
đóng cổng làng th́ coi như làng đó hoàn toàn bị cô
lập với bên ngoài .
Sau đó các cán bộ
tổ chức buổi họp kéo dài khoảng 10 ngày gồm
các thành phần bản bộ, tức là bần cố nông để dạy cho cách phân
định thành phần . Các bần cố nông cũng được họp bàn với
cán bộ để thống nhất ư kiến về cách
sắp xếp ai vào thành phần nào . Thường th́
bần cố nông đều đồng ư với cách cán
bộ đă định trước .
Sau khóa học về cách
phân định thành phần th́ buổi họp công khai có dân
làng tham dự được tổ chức và kết quả phân định
thành phần được loan báo . Sau khi loan báo kết
quả, địa chủ bị bắt giữ ngay .
Các thành phần được
chia ranhư sau:
· Địa
chủ: có ruộng đất mà không trực tiếp cày
cấy . Có 3 hạng địa chủ:
1.Địa
chủ ác ôn phản động: là quan lại, những
người có liên quan đến các tổ chức
đảng phái khác hay thân Pháp .
2.Địa
chủ cường hào, ác bá: những người có
thế lực trong làng, hiếp đáp, ngược đăi
bần nông, cố nông .Địa chủ có dưới 5
ha, không hợp tác với chính quyền cũ .
3.Địa
chủ có dưới 5 ha, không hợp tác với chính
quyền cũ .
· Phú
nông: có khoảng 3 mẫu ta, 1 con trâu, tự cày cấy và
thuê nông dân phụ giúp.
· Trung
nông: có dưới 3 mẫu ta, tự cày cấy, chỉ
đủ sống . Chia ra hai hạng:
1. Trung nông cấp cao: có
dưới 3 mẫu ta, 1 trâu hay 1 ḅ .
2. Trung nông cấp thấp: có
dưới 1 mẫu ta .
· Bần
nông: có một ít sào đất , không đủ sống,
phải đi làm thuê cho địa chủ hay thuê
đất của địa chủ để cày cấy
và phải trả tô .
· Bần
cố nông: không có đất đai nhiều đời,
không có gia súc, không có nông cụ, làm thuê đủ thứ
nghề để sống .
Ban Cải Cách Ruộng
Đất phân loại như vậy để chia rẽ
nông dân, giảm sức chống đối . Khẩu
hiệu của chiến thuật là : dựa vào bần
cố nông, tranh thủ trung nông, cô lập phú nông, tập
trung mũi nhọn vào địa chủ . Đó là chiến thuật “bẻ
đũa th́ bẻ từng chiếc” .
Đảng CS chia ra
nhiều thành phần rồi tiêu diệt từng thành
phần một để giảm bớt sự chống
đối . Nếu chúng ta xét từ các sắc lệnh
cải cách ruộng đất đầu tiên th́ lúc
đầu thành phần bị tịch thu ruộng
đất chỉ là người Pháp và những
người hợp tác với người Pháp . Rồi sau
đó là hễ đất bỏ hoang quá năm nay th́ bị
tịch thu bất kể là của người có hợp
tác với Pháp hay không . Lần đầu th́ chỉ
những người Việt hợp tác với Pháp mới
bị mất ruộng . Lần thứ hai th́ tất cả
những người nào có ruộng bỏ hoang quá năm
năm mới bị mất ruộng .
Đến đợt
đấu tố th́ “tập trung mũi nhọn vào
địa chủ” nghĩa là tất cả ai làm chủ ruộng
mà có thuê tá điền đều là nạn nhân . Điạ
chủ lại được chia ra 3 thành phần và
đối xử khác nhau do đó phản ứng của
mỗi thành phần mạnh yếu cũng khác nhau.
Điạ chủ ác ôn sẽ bị bắt và gia đ́nh
bị cô lập sau khi phân định thành phần .
Địa chủ cường hào ác bá phải đi dự
lớp cải tạo kéo dài 3, 4 tuần, ban đêm không cho
ngủ để khủng bố tinh thần, phải khai
ra chỗ dấu của cải . Địa chủ
loại 3 bị bắt đi ở nhà của một nông
dân khác có công an canh chừng, đêm đến giải
từ nhà này qua nhà khác .
Phú nông, trung nông, bần
nông th́ thấy ḿnh không bị đụng đến nên
cố hợp tác với chính quyền để bảo
vệ quyền lợi của ḿnh . Phú nông, trung nông cũng
bị đối xử cho thấy rơ có phân biệt là
thấp hơn đối với bần nông . Chẳng
hạn, khi đi vào buổi đấu tố, bần nông
đi thành đoàn và đứng riêng , phú nông, trung nông đi
riêng, đứng riêng . Cách đối xử phân biệt
khiến cho phú nông, trung nông sợ hăi, không dám chống
đối v́ sợ bị xép vào hạng địa chủ
và hết sức ủng hộ đấu tố .
Nhưng đến
chiến dịch CCRĐ sau, phú nông, trung nông bị kích lên
thành địa chủ và cũng vẫn bị mất
ruộng đất tài sản, bị tù tội, bi. chết
.
Cuối cùng sau khi
đấu tố chấm dứt, đến phong trào
hợp tác hóa toàn thể nông dân đều phải đem
ruộng vào hợp tác xă cả, không c̣n ai có ruộng riêng .
Để không c̣n ai bênh
vực địa chủ, những người có thể
bênh địa chủ cũng bị gán cho tội “liên quan
đến địa chủ” . Có ba loại liên quan:
1. Liên
quan nặng: dám có thái độ bênh vự địa
chủ, bị gán cho tội “có tư tưởng
địa chủ” . Bị đối xử như là
địa chủ nghĩa là bị bắt giam “cô lập”,
bị tịch thu tài sản, vợ con bị quản thúc
trong nhà cho đến khi đói mà chết .
2. Liên
quan vừa: trước đây có cảm t́nh với
địa chủ, nhận ơn nghĩa của
địa chủ . Bị đưa sang làng khác quản
thúc đổi nhà với thành phần “liên quan vừa”
của làng kia được đem qua làng này quản thúc .
3. Liên
quan sơ: bị nghi là vẫn c̣n có óc muốn bênh
địa chủ, không chịu đấu tố hăng .
Bị đuổi khỏi Nông Hội, nghĩa là sau này
sẽ không được phân phát cho các phương
tiện cày cấy như trâu ḅ, nông cụ, vay lúa giống
...
Trong giai đoạn phân
định thành phần nhiều người bị
trả thù mà bị đưa vào thành phần địa
chủ . Hoặc v́ muốn
lập công làm cho đủ hoặc nhiều hơn chỉ
tiêu ở trên giao cho mà nhiều người bị qui là
địa chủ oan .
Trong khi địa chủ
bị giam giữ th́ các Đội CCRĐ đến nhà các
địa chủ đ̣i gia đ́nh phải tiền nộp
“thoái tô”, tức là số tiền thâu của tá điền
quá mức nhà nước qui định, cho Nông Hội .
Trên lời nói của Đội CCRĐ th́ số tiền
thoái tô là do tá điền mách bảo nhưng trên thực
tế th́ món tiền được định tùy theo
Đội CCRĐ thấy nhà địa chủ có của
cải nhiều ít đến mức nào . Mục đích là
bắt địa chủ phải nộp cho hết
tiền, vàng bạc, của cải . Ai mau mắn đóng
đủ th́ bị nghi là vẫn c̣n của cải nên
Đội CCRĐ nói là đă định lầm và gia
tăng bắt đóng thêm cho đến mức đóng không
nổi . Những kẻ không mau mắn nộp th́ bị
hành hạ, con cái bị giam riêng để tra hỏi . Gia
đ́nh nào không chịu đóng th́ bị kích thành phần cho
lên hạng trên và có thể bị bắn .
Các giai đoạn
đấu tố chia ra làm đấu lư, đấu lực
và đấu pháp .
2.4.3.3 Tố khổ
(Đấu Lư)
Đấu lư là dùng
lời lẽ kết án . Trong khi địa chủ bị
giam th́ nông dân được triệu tập đi học
lớp về “Tội ác của giai cấp địa
chủ” . Mục đích của lớp này là giảng cho
nông dân biết địa chủ đă bóc lột nông dân
như thế nào .
Sau khi học, các học viên
phải “kể khổ”, nghĩa phải kể ra
địa chủ đă đối xử xấu với
ḿnh như thế nào . Mỗi người phải kể ra
ít nhất một tội . Phần lớn các tội
đều là bịa đặt, nhiều người nông
dân bị ép buộc phải ra tố cáo và phải bịa
ra chuyện để tố . Giảng viên đọc ra
một danh sách các tội “điển h́nh” nói là đă thu
thập trong các lớp trước, cốt để
gợi ư các nông dân nào không bịa được tội th́
cứ lấy các tội trong danh sách mà kể ra . Lúc tố
phải dùng ngôn từ hung dữ, nặng nề . Các
tội bịa ra càng là những tội xấu xa, bỉ
ổi nhưng hiếp dâm, đánh đập người .
. . th́ càng tốt . Các “diễn viên” tập dợt tố
khổ với h́nh nộm bằng rơm giả làm
địa chủ .
Những kẻ nào không
tỏ vẻ hưởng ứng th́ bị kết tội
là muốn bênh địa chủ và có thể bị kích thành
phần lên để trị tội. V́ thế một
số địa chủ bảo con cái tố ḿnh cho
hăng, Họ biết thê nào họ cũng chết, chỉ
hy vọng là con cái không bị xếp vào thành phần
xấu hơn, may ra c̣n giữ lại được chút
của cải.
2.4.3.4 Đấu tố
địa chủ (Đấu Lực)
Đấu lực là dùng
cực h́nh hành hạ nạn nhân.
Sau khi đă có danh sách các
tội sẽ đem ra kể, những người
được chọn sẽ ra đấu tố trong ṭa
án nhân dân sẽ tập dượt lời ăn tiếng
nói, cử chỉ sẽ làm trong buổi đấu tố .
Đội CCRĐ cố t́nh dùng những cách làm cho nạn
nhân bị xỉ nhục trở nên mất tư cách
trước con mắt mọi người đứng xem
và dùng những cách hành hạ để người xem
thấy kinh khủng . Người tập dượt
phải học thuộc ḷng lời nói của ḿnh, phải
biết khi nào cần hung dữ, quát tháo, khi nào cần khóc
lóc bi thảm để tỏ ra vẻ bị ức
hiếp .
Khi việc tập dợt
đă xong, đấu trường được thiết
lập để thi hành việc đấu tố .
Đấu tố là màn chính trong chiến dịch CCRĐ.
Tất cả mọi người trong làng đều
phải đến tham dự .
Cách xử địa
chủ được phân theo hạng:
Địa chủ
hạng 1, phản động ác ôn, bị đấu 3 ngày
liền trước một đám đông từ một
đến hai chục ngàn người, gồm dân của
một “liên xă”, tổng cộng là 15 làng .
Địa chủ
hạng 2, cường hào ác bá, bị đấu 2 ngày
liền trước đám đông khoảng hai ngàn
người, tức là dân của cả làng .
Địa chủ
hạng 3 bị “đấu lưng” nghĩa là đấu
vắng mặt . Trong khi địa chủ bị giam
một nơi th́ dân làng đem kể tội với nhau
trong ṭa án nhân dân . Sau đó mới gọi địa
chủ ra kư nhận biên bản là có tội . Lư do cho xử
vắng mặt được nói là “nhà nước
muốn khoan hồng” nhưng trên thực tế th́ đây
là hạng địa chủ không có tội ǵ đáng kể
để mà tố, nếu để cho họ có mặt
th́ họ sẽ căi làm cho buổi đấu tố không
thể thành công . Địa chủ hạng này có thể là
người có ruộng trong làng nhưng lại sống
nhiều ở thành thị, ít chung đụng với dân
làng nên chẳng có ǵ để mà kết tội là
đối xử tệ với nông dân.
Những địa
chủ không chịu nổi sự hành hạ, sỉ
nhục mà bị chết hoặc tự tử th́ sẽ
bị “đấu ảnh”, nghĩa là lấy mũ, nón hoặc
khăn, áo của người này đem ra để
tập thể nông dân xỉ vả .
Đấu trường
được lập ở một nơi rộng răi
như sân vận động hay băi đất trống .
Một bục ba tầng được dựng lên,
từng dưới là 14 thư kư gồm toàn bần cố
nông, trong đó có ít ra 1
người thực sự biết chữ làm ra vẻ là viết biên bản
có thể là trung nông. Từng hai là 7 người bần
cố nông của Chủ TọaĐoàn, gồm Chủ
Tịch Nông Hội và một công an trưởng . Từng
trên cùng trưng ảnh Hồ Chí Minh, hai bên là ảnh Malenkov
và Mao Trạch Đông . Hai bên đấu trường
chăng các biểu ngữ với khẩu hiệu như
“Phóng tay phát động quần chúng đấu tranh
giảm tô” hoặc “đấu tranh Cải Cách Ruộng
Đất”, “Đả đảo tên địa chủ ABC
Việt gian, phản động, cường hào, ác bá” .
Chủ tọa đoàn
tuyên bố lư do buổi họp, thuyết tŕnh về ư
nghĩa và sự cần thiết của cuộc
đấu tranh chống địa chủ . Công an
trưởng ra lệnh lôi địa chủ ra để
tố . Khi địa chủ bị lôi ra, những
người xung quanh phải hô to “Đả đảo
thằng Việt gian, phản động, cường hào,
gian ác ...(tên nạn nhân)”. Nạn nhân phải ḅ ra
đấu trường chứ không được đi
bằng hai chân. Giữa đấu trường đắp
hai mô đất, người bị đấu đứng
trên một mô đất, người đấu đứng
trên mô đất kia .
Khi chủ tọa đoàn
kêu gọi “anh chị em nông dân” ra kể tội th́ theo
như đă sắp xếp mọi người xung quanh
đua nhau giơ tay xung phong . Chủ tọa đoàn gọi
những người đă định trước trong
danh sách của ḿnh ra để đấu .
Tùy theo từng sáng
kiến của mỗi Đội CCRĐ mà các h́nh thức
xỉ nhục, hành hạ tại mỗi làng khác nhau,
chẳng hạn bỏ đói, bỏ khát nạn nhân,
bắt phải qú phơn nắng, đào hố sâu
đến đầu gối bắt nạn nhân
đứng xuống để trông thấp hèn hơn
mọi người xung quanh . . .
Dùng những lời lẽ nặng nề, cực
đoan, quát mắng, ḥ hét, thóa mạ để làm mất
nhân phẩm người bị xử . Người bị
đấu phải gọi kẻ tố ḿnh là “thưa các
ông, các bà nông dân”, c̣n người tố th́ phải gọi
nạn nhân là “thằng này”, “con kia”, “mụ kia”, “chúng
bay”, và tự xưng là
“tao”, “chúng tao” . Ngay cả những
nạn nhân lớn tuổi cũng phải gọi kẻ
đấu ḿnh c̣n nhỏ tuổi là “ông”, “bà”, c̣n
người nhỏ tuổi th́ dùng những tiếng
xưng hô rất khinh miệt để gọi
người lớn tuổi hơn ḿnh .
Hành động
điển h́nh thường bắt đầu bằng
lấy tay xỉa xói vào nạn nhân và nói “Mày có nhớ tao là
ai không”, rồi nói “Tao là ... ở làng ... đă đi ở
cho mày trong ... năm”, rồi sau đó kể ra các tội
tưỏng tượng như bị cướp trâu, ḅ, bị
đánh đập, bị nhét phân vào miệng, bị
cưỡng hiếp, bị giết con, bị rủ vào
hội “Việt gian”, vẫy tay với máy bay Pháp ...
Thái độ
người tố tŕnh diễn như đă tập sẵn
là phải làm ra vẻ căm thù, hoặc khóc lóc tùy theo màn,
theo cảnh đă sắp xếp. Tuy vậy khi ra đấu
trường, nhiều kẻ cũng không thuộc lời
ḿnh nói và đóng kịch một cách vụng về ,
phải có người đứng ngoài nhắc khiến cho
các phiên ṭa của Ṭa Án Nhân Dân càng rơ chỉ là những màn
tŕnh diễn .
Người bị
đấu không được quyền trả lời mà
chỉ được nhận “Có” hay là “Không” . Mỗi khi
trả lời “Không” th́ đám đông phải la ó “Đả
đảo thằng ... ngoan cố” . Cứ mỗi năm phút
th́ công an trưởng bắt người bị tố
phải qú xuống, đứng lên, dơ tay lên trời
rồi giang tay ra .
Một số tṛ hành
hạ được được ghi lại như: sỉ nhục, mắng chửi,
đánh đập, đào hố bắt nạn nhân nằm
xuống rồi tiểu, đại tiện lên
người nạn nhân, giựt tóc, d́m nước, nhét phân
vào miệng, dùng tre nhọn xuyên qua qua tay chân, thân thể,
cho ngồi vào ổ kiến lửa, dùng lửa đốt
tay chân . . .
Nhà văn Vũ Thư Hiên
viết trong cuốn Đêm Giữa Ban Ngày tả cảnh
thời đấu tố như sau:
“Đấu tố
diễn ra liên miên, ngày càng khốc liệt. Người dân
cày dung dị hôm trước, được Đảng
phóng tay phát động, vụt trở thành hung tợn,
mặt bừng bừng khoái trá trong niềm vui hành hạ
đồng loại . Tôi kinh hoàng không hiểu nỗi:
lần lượt lướt qua mặt tôi từng
bầy đàn người bị kích thích bỡi mùi máu,
hăm hỡ đi dưới lá cờ đỏ sao vàng
không phải để chiến đấu với quân xâm
lược mà với chính đồng bào ḿnh.”
“Tại xă Ngô Xá, làng Ng̣,
Thanh Hóa, ...người ta trói chặt hai tay rồi dong
mẹ bạn tôi đi khắp làng, chỉ v́ bà ta trót
dại nói điều ǵ đó mất lập trường
hoặc không vừa ḷng cán bộ giăm tô, giảm
tức...Chúng tôi nghe tiếng kêu khóc chạy tới th́
mấy anh du kích quen đang xềnh xệch kéo bà đi . Hai
tay bị trói dơ lên trời, bà xiêu vẹo bước sau
họ, kêu gào thảm thiết “Ới cụ Hồ ơi,
Cụ trông xuống mà xem người ta đối xử
với con dân Cụ thế này đây”.
“Ở một xă khác,
một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa
bắt chéo, bên dưới là một đống lửa .
“Con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm”,
những người bâu quanh nhao nhao nói thế.
Người đàn bà quằn quại mải, tới khi
ngất đi rồi mới được người ta
hạ xuống”
“Cha bạn tôi, hoạt
động cách mạng từ trước năm 1945,
bị tống giam v́ bị vu là đảng viên Quốc Dân
Đảng, thắt cổ tự tử, để lại
bức thư tuyệt mệnh: “Oan cho tôi lắm, cụ
Hồ ơị Tôi trung thành với cụ, với
Đảng”.
“Trẻ thơ cũng
không thoát :” Người ta lấy gai bưởi cắm vào
đầu ngón tay của một cô gái, có trời biết cô
ta bị tội ǵ, có thể là cô ta chỉ có tội là con
địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại nhấn
những cái gai sâu thêm một chút làm cô gái rú lên v́ đau,
quằn quại trong dây trói”
“Một cụ già tóc
bạc phơ bị tṛng dây vào cổ, bị lôi xềnh
xệch trên đường. như một con chó. Lũ
trẻ trong làng rùng rùng chây theo sau, chúng vỗ tay, chúng reo ḥ,
chúng cười ngặt nghẽo”
Mỗi người nông
dân được tố
trong15 phút . Mỗi địa chủ thông
thường bị 4 người tố . Tổng cộng
thời gian bị tố khoảng một tiếng
đồng hồ . Sau khi đă tố xong, địa chủ
bị đưa đến bàn chủ tịch để kư
vào biên bản đă ghi các tội sẵn để nhận
tội.
Về nội dung tội
trạng, địa chủ hạng 1, phản động
ác ôn, bị đấu 3 loại tội vào vào 3 ngày:
1.Ngày 1:
tội về các “món mồ hôi”: cướp trâu,
cướp ḅ, cho vay nặng lăi v.v...
2.Ngày 2:
tội về các “món nợ hạnh phúc”: hăm hiếp vợ
người tố, hăm hiếp người tố , cha
cưỡng hiếp con gái ...
3.Ngày 3:
tội về các “món nợ máu”: các tội liên quan
đến chính trị như rủ rê người tố
vào hội “phản động”, do thám tin tức cho Pháp,
rủ rê làm việc cho Pháp ...
Những kẻ cứ
khăng khăng không nhận tội th́ những ngày hôm sau
sẽ bị gán cho các tội càng nặng hơn, cuối
cùng sẽ đưa ra ṭa án nhân dân để nhận án
tử h́nh . Những kẻ ngoan ngoăn nhận tội sẽ
bị các tội tương đối nhẹ hơn . Dù
ngoan ngoăn cuối cùng cũng sẽ bị xử tử
nếu như án đă
được định từ trước là phải
xử tử và v́ mỗi xă phải có bao nhiêu người
đó phải bị bắn cho đúng chỉ tiêu .
Trong những đợt
đấu tố đầu tiên, nhiều địa
chủ không hiểu điều này nên cứ khăng
khăng không nhận tôị nên số người bị bắn
rất cao. Nhưng về sau, mọi người
đều hiểu là dù nhận hay không th́ số phận
đă được định sẵn rồi .
Những linh mục, ḥa
thượng, nhà nho càng đạo mạo th́ lại càng hay
bị tố cáo về các tội liên quan đến
đạo đức như hiếp dâm, loạn luân .
2.4.3.5 Thi hành án
(Đấu Pháp)
Trừng phạt bản
thân địa chủ:
Đấu pháp là đem
nạn nhân ra xử tội. Việc kết án không theo
điều luật nào mà chỉ tùy thuộc đội
cải cách quyết định . Toàn thể dân làng phải
đi xem xử án . Chánh án là
đội viên trong đội CCRĐ . Biện lư hay công
tố là một trong những nông dân trước đây
đă làm thuê cho kẻ bị xử . Không có luật sự
biện hộ . Án căn cứ theo biên bản mà tội
nhân đă kư . Không ai có quyền căi hay biện hộ . H́nh
phạt có thể từ 5
năm khổ sai đến tử h́nh, kèm theo tịch thu
một phần hoặc toàn bộ tài sản . Sau khi ṭa tuyên
án tử h́nh th́ tội nhân bị đem xử bắn ngay .
Công chúng xung quanh phải vỗ tay hoan hô sau khi tội nhân
ngă gục xuống .
Chính sách cô lập gia
đ́nh địa chủ:
Chẳng những
địa chủ bị xử tội mà gia đ́nh
địa chủ cũng bị cô lập . Sau khi
địa chủ bị xử tội, trong ṿng hơn
một năm trời, từ đợt đấu tố
đầu tiên cho đến đợt thứ hai,
nhiều gia đ́nh
địa chủ không được phép ra khỏi
nhà, trừ khi bị chính quyền gọi ra xét hỏi .
Nhiều gia đ́nh bị chết đói trong giai
đoạn này . Trẻ con và người già chết
trước rồi đến các người lớn .
Người trong làng không được giao thiệp, chào
hỏi, không được tiếp thế thức ăn .
Khi những người này bị chính quyền giải
đi ngoài đường hay đứng trước sân
nhà, cán bộ xúi trẻ con lấy đá ném vào họ .
Luật sư Nguyễn
Mạnh Tường viết trong bài diễn văn
đọc trước Đại Hội Toàn Quốc
của Mặt Trận Tổ Quốc nói về việc cô lập
làm chết người già, trẻ em như sau: “Trong khi
đập tan giai cấp địa chủ, ta không phân
biệt đối xử, ta để cho chết chóc thê
thảm những người già cả, hoặc thơ
ấu mà ta không chủ trương tiêu diệt “ .
Nguyễn Hữu Đang,
từng là Bộ Trưởng Văn Hóa cũng viết:
“Trong CCRĐ, những việc bắt người, giam
người, tra hỏi (dùng nhục h́nh dă man), xử
tử, xử bắn, tịch thu tài sản hết sức
bừa băi, bậy bạ, cũng như việc bao vây làm
cho chết đói những thiếu nhi vô tội trong các gia
đ́nh địa chủ, hoặc chính là nông dân bị quy
sai thành phần “.
2.5 Đấu tố giai
đoạn hai 1955
Cách thức đấu
tố th́ vẫn như đợt trước nhưng
lần này có thêm một số đảng viên cũ cũng
trở thành nạn nhân . V́ Chi Bộ Đảng tại xă
đă bị giải tán vào lúc đợt CCRĐ đầu
tiên bắt đầu nên sau khi đợt CCRĐ
đầu tiên chấm dứt, việc kết nạp
đảng viên được thực hiện để
tái lập Chi Bộ . Trong đợt này, nhiều bần
cố nông đă được kết nạp vào
đảng , một số đảng viên cũ bị xét
là có “liên quan đến địa chủ”, mặc dù
trước đó đă góp công kháng chiến, cũng bị
gạt ra ngoài . Trong đợt CCRĐ thứ hai, nhiều
đảng viên cũ cũng bị qui là địa chủ
đem ra đấu tố, tài sản bị tịch thu .
Ngoài ra v́ chỉ tiêu là mỗi xă phải có 5% địa
chủ cho nên một số người trước đây
là phú nông hoặc trung nông cũng bị đôn lên thành
địa chủ cho đủ số, hoặc bất
cứ ai mà Đội CCRĐ không ưa cũng bị ghép
vào làm địa chủ . Ước lượng có từ
40000 đến 60000 đảng viên bị qui tội
địa chủ và bị đem ra đấu tố .
Một số điểm
trong nội dung sắc lệnh của đợt này ban hành
ngày 14-6-1955 như sau:
Tuy sắc lệnh là
như vậy nhưng khi thực hiện th́ việc
tịch thu rất là bừa băi, c̣n những kẻ mà tài
sản bị thu mua th́ về sau chính phủ cũng không
nhắc đến việc bồi thường mà nạn
nhân cũng không dám đ̣i bồi thường v́ sợ
bị gán cho là c̣n “đầu óc địa chủ” hoặc
không “tiến bộ” .
Trong đợt CCRĐ
lần hai, số
người bị cô lập chết đói nhiều
hơn đợt đầu v́ gia đ́nh những
“địa chủ” từ phú nông hoặc trung nông bị
đôn lên quá nghèo không có nhiều vườn tược,
hoặc của cải dấu, được bạn bè lén
giúp như các địa chủ đợt trước
để sống sót cầm hơi .
2.4.6 Sửa Sai 1956
Các cuộc đấu
tố làm cho mọi nơi tại nông thôn miền Bắc
người dân phẫn nộ . Một trong những
phản ứng của nông dân ghi lại được là
vụ nổi dậy ở huyện Quỳnh Lưu,
Nghệ An vào tháng 11-1956. Hàng ngàn người dân đă
nổi lên đánh đuổi các cán bộ, chiếm chính
quyền địa phương . Sư đoàn 325
được đưa đến để bao vây và
đàn áp . Trong ṿng 10 ngày từ ngày 10-11-1956 đến
20-11-1956, dân làng đă chống nhau với quân đội và
cuộc nổi dậy bị dập tắt . Khoảng 1000
người đă bị giết và nhiều người
khác bị bắt .
Tuy vậy theo ông Hoàng
Văn Chí, chiến dịch Sửa Sai không phải là do
sự phẫn nộ của người dân mà là một
giai đoạn đă được dự trù từ
trước cùng với các giai đoạn trước
đó trong một chương tŕnh toàn bộ . Sửa Sai là
để xoa dịu ḷng công phẫn của quần chúng sau
khi làm cho họ phải chịu sự kinh hoàng tột
độ .
Các vụ qui chụp
bừa băi, dùng các biện pháp tàn ác trong các đợt
trước là có dụng tâm do sự thực hiện nguyên
tắc của Mao Trạch Đông: “Muốn chữa một
t́nh trạng bất công th́ phải vượt quá mức
của sự công bằng” hoặc như ông Hồ Chí Minh
nói: “Nếu muốn thẳng một cái que cong th́ phải
bẻ nó quá về phía bên kia và giữ như vậy một
lúc lâu . Khi buông tay, cái que sẽ từ từ thẳng
trở lại” . Sửa Sai là để cho cái que trở về
vị trí “thẳng” .
Ngày 1-7-1956, Hồ Chí Minh
gửi văn thư cho đoàn CCRĐ nói rằng trong
CCRĐ đă có sai lầm .
Ngày 18-8-1956, Hồ Chí Minh
gửi thư ngỏ cho toàn dân công nhận có sai lầm:
“Trung Ương Đảng và chính phủ đă nghiêm
khắc, kiểm điểm những sai lầm khuyết
điểm . . . và đă có kế hoạch kiên quyết
sử chữa , nhằm đoàn kết nhân dân, ổn
định nông thôn, đẩy mạnh sản xuất . “
Tháng 9-1956, hội nghị
Trung Ương Đảng Lao Động lần thứ 10
họp thảo luận và cho rằng về
đường lối Cải Cách Ruộng Đất vẫn
đúng, chỉ có cấp dưới làm sai . Hội
nghị cũng bàn về các biện phát sửa sai . Ngày
29-10-1956, buổi mít ting ở Nhà Hát Lớn Hà Nội, ông Vơ
Nguyên Giáp đă đọc lời công nhận có sai lầm .
Nhưng về sau, guồng máy thông tin của đảng
CSVN cũng vẫn nói CCRĐ là thắng lợi lớn .
Một số nhân vật
bị cách chức để xoa dịu sự phẫn
nộ của người dân . Trường Chinh bị
mất chức Tổng Bí Thư ĐLĐVN . Hoàng Quốc
Việt và Lê Văn Lương bị đưa ra khỏi
Bộ Chính Trị . Lê Văn Lương ngưng chức
Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng
. Hồ Viết Thắng bị loại khỏi Ban Chấp
Hành Trung Ương Đảng .
Một thời gian sau,
Trường Chinh lại được làm Phó Thủ
Tướng (29-4-1958), rồi làm Chủ Tịch Ủy Ban
Thường Vụ Quốc Hội (7-7-1960). Những
người kia cũng vẫn được giữ các
chức vụ quan trong trong đảng và chính quyền .
Ngày 2-11-1956, báo Nhân Dân
đăng thông báo của Hội Đồng Chính Phủ
với nội dung:
· Ủy
Ban Cải Cách Ruộng Đất không có quyền chỉ
đạo nữa, mọi việc sẽ thuộc chính
phủ trung ương .
· Hủy
bỏ Ṭa Án Nhân Dân đặc biệt .
· Hồ
Viết Thắng thôi chức Phó Chủ Nhiệm và Ủy
Viên Thường Trực Ủy Ban Cải Cách Ruộng
Đất Trung Ương, thôi chức Thứ
Trưởng Nông Lâm .
· Lê
Văn Lương thôi chức Thứ Trưởng bộ
Nội Vụ và Chủ Nhiệm pḥng Nội Chính Chính
Phủ .
Có khoảng 12000
đảng viên được xét là bị gán tội
địa chủ oan được thả ra .
Giai đoạn sửa sai
này vẫn chưa phải là hết xáo trộn rắc
rối . Những đất đai, nhà cửa bị
tịch thu và chia cho các nông dân, đến khi muốn
trả lại cho chủ cũ th́ hoặc là chủ cũ
đă bị chết, gia đ́nh tan nát, hoặc nhà cửa
đă bị hư hỏng . Khi nông dân được chia
của biết rằng ḿnh sẽ trả lại tài sản
th́ họ đem làm thịt trâu ḅ để ăn, hoặc
cạy gỡ cánh cửa, vách ván để đem đi, phá
hại cây cối, vườn tược .
Các đảng viên cũ
bị qui làm địa chủ khi được trả
về đă trả thù những người đă hành
hạ ḿnh. Một số đảng viên mới bị
đảng viên cũ lấy phân bỏ vào miệng
để trả thù lúc trước họ bị xử
như vậy hoặc có đảng viên mới bị cắt
lưỡi, rạch mồm để trả thù hành
động kẻ đă vu cáo trước họ đây. Có
những trường hợp đảng viên mới sợ
bị trả thù đă cùng nhau giết các đảng viên
cũ vừa được thả ra .
Vợ của đảng
viên cũ bị ép lấy đảng viên mới trở
thành nguyên nhân nhiều vụ xung đột khi người
chồng cũ được thả ra .
Đại Tá Bùi Tín
viết trong cuốn Mặt Thật như sau về
chiến dịch Sửa Sai:
Uy tín của đảng
qua sai lầm cải cách ruộng đất có bị
sứt mẻ, giảm sút không?
Tôi nhơ" lại và thật khó trả lời cho
đúng. Xin kể lại
cả thời ấỵ Sau
nghị quyết sửa sai, lại thành lập những
đoàn cán bộ sửa sai, công bố cả một
loạt tài liệu quy định các bước sửa
sai, phát hành rộng răi những văn kiện có tính pháp
luật về sửa saị
Lại một lô tài liệu chồng chất về
sửa sai.
Cuộc sửa sai
được tiến hành ráo riết, mồi nơi là
chừng 4 tháng, có nơi hơn 6 tháng. Các bước sửa sai đi cũng với
củng cố tổ chức đảng và chính quyền
ở cơ sở. Những
người bị giam giữ oan ức được
trả tự do, sau những buổi học thanh ḿnh và xin
lỗi theo nội dung: đảng không cố t́nh mà vô t́nh
làm sai, do không kiểm tra cấp dưới; đảg
rất đau xót nhận sai lầm; đảng xin lỗi
mỗi đồng chí, đồng bào và khôi phục danh
dự và quyền lợi của các đồng chí,
đồng bàọ Trong
cơn khó khăn này, đảng mong mỗi đồng chí
sát cánh cùng đảng sửa sai đến nơi
đến chốn, mà đóng góp lớn nhất của
đồng chí là thông cảm với đảng, cùng
đảng sửa sai và ổn định t́nh h́nh, không gây
thêm bất kỳ khó khăn nào cho đảng. Êm taị Ngọt ngào. Số
đảng viên ốm yếu được bồi dưỡng,
tẫm bổ trước khi trở về nhà. Những
người mắc bệnh được giới
thiệu đi bệnh viện với sụ chăm sóc và
thuốc men khá là đặc biệt. Số bị qui sai
thành phần nhận giấy chứng nhận về thành
phần xă hội đă hạ xuống, địa chủ
hạ xuống phú nông, hoặc trung nông; địa chủ
phản động được gỡ mũ phản
động...) Những
thứ tịch thu sai được trả lại: nhà
cửa, đồ đạc như bàn ghế,
giường tử, đồ đồng..., được trờ về
chủ cũ (tất nhiên không thể nguyên vẹn và
đầy đủ).
Đảng viên bị khai trừ oan được
làm lễ phục hồi đảng ti.ch. Con em họ c̣n đưọc
ưu tiên nhận vào các cơ sở đào tạo và nhà
máỵ
C̣n số người
chết oan? Những gia
đ́nh này được cán bộ cấp huyện và
chủ tịch xă đến thăm viếng, nhận lỗi
và an ủị Giấy minh
oan được mang đến tận nơi, với
những chứng nhận phục hồi đảng
tịch (nếu là đảng viên), trả lại huân
chương, bằng khen, c̣n được tặng thêm
ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh có đóng dấu
của tỉnh. Mộ
người chết oan được dân quân đắp lại,
việc xây mộ được đặt ra, và lễ
phát tang được làmlại với cổ bàn tử
tế, có bà con họ hàng, làng xóm cùng các vị chức
sắc địa phương tham dự.
Cuối năm 1957 có lúc
t́nh h́nh khá căng thẳng, một số gia đ́nh oan
ức chưa được sửa sai kéo về Hà Nội
trước trụ sở trung ương đảng,
trước cả Phủ Chủ Tịch (Phủ Toàn
Quyền cũ) đưa đơn, chờ đợi
trả lời với thái độ phẩn uất, có
người chít khăn tang, dắt trẻ nhỏ lết
thếch cũng đội khăn trắng. Phải tổ chức nơi
tiếp đón, nhận đơn, giải thích, chuyển
về địa phương.. dần dần mới
dịụ Đặt
biệt là sau cuộc gặp gỡ các đại diện
những gia đ́nh bị tổn thất lớn trên toàn miền
Bắc ngày 29.10.1956 tại sân vận động Hàng
Đẫy, đại tướng Vơ Nguyên Giáp thay mặt
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị
đứng ra nhận tội, xin lỗi, đưa ra
phương án sửa sai khẩn cấp th́ không khí dịu
hẳn lạị Tại
cuộc họp lớn này, người ta đẩy cụ
Bùi Kỷ, một nhân sỹ trong Mặt Trận Tổ
Quốc ra đọc lời khai mạc. Sau đó đại tướng
Vơ Nguyên Giáp lên tiếng thuyết phục. Cái lư sự để thuyết
phục ở mặt trận, nhất là mặt trận Điện
Biên Phủ, chiến sỹ ta c̣n lấy thân chèn pháo bất
kể sinh mạng ḿnh, hàng ngày chiến sỹ bỏ ḿnh...
th́ việc tổn thất trong cải cách ruộng đất
tuy là đáng tiếc nhưng cũng là đóng góp cho cách
mạng tiến lên. (!)
Ít lâu sau báo Quân đội
Nhân Dân đưa ra xă luận, chỉ rơ "Chính trong sai
lầm mà nhân dân ta càng thêm vĩ đại, đảng ta
thêm vĩ đại", lập luận rằng: một
đảng có gan nhận sai lầm và nhận trách nhiệm,
bắt tay vào sửa sai một cách khẩn trương, chu
đáo là thể hiện sức mạnh của toàn
đảng đó, chứng minh sự vĩ đại
của đảng! Mối quan hệ bản chất
ruột thịt giữa đảng và nhân dân càng thêm
bền chặt qua thử thách lớn nàỵ
Đó, thế có tài thánh
không! Ngay cả khi đảng phạm tội giết
bừa hàng chục ngàn sanh mạng nhân danh chủ nghĩa
Mác-Lênin và cách mạng vô sản, th́ đảng vẫn
cứ là vĩ đại!
Đảng vĩ đại ngay cả trong sự sai
lầm khủng khiếp nhật.
Lẽ phải, chân lư, sự đứng đắn
vĩnh viển nằm trong tay đảng.
Ngay sau đó, chế
độ "ngày đảng", c̣n gọi là
"đảng nhật" được áp dụng, theo
kiểu Tàụ Cứ ngày
thứ bảy, thường là sáng thứ bảy, tất
cả cơ quan xí nghiệp đều họp chi
bộ Trong quân đội, tôi
c̣n nhớ, đó là cả ngày thứ bảỵ Anh em ngoài đảng th́ lam`
vệ sinh, sửa chữa doanh trại, nhà cửa, đi
làm công tác giúp dân (gọi là dân vận), cán bộ
đảng viên th́ học tập về đảng, tự
phê b́nh và phê b́nh, tu dưỡng tư tưởng. Riêng tài liệu của Cục
Tuyên Huấn biên soạn: "Đảng lănh đạo
thường xuyên, liên tục, toàn diện và tuyệt
đối quân đội ta", phải tiến hành
học tập trong 3 buổi đảnh nhật, có tên
lớp, phát hiện thắc mắc, thỏo luận
tổ, liên hệ cá nhân, giải đáp thắc mắc, làm
thu hoạch và tổng kết cuối cùng.
Các tổ trưởng
đều phải ghi biên bản thảo luận và
tổng kết, phát hiện những "ư kiến sai
trái" và những người có ư kiến sai trái, có
nhận thức "không đúng", "lộn
xộn", "không rơ
ràng", "lập trường không
vững", "ảnh hưởng của tư
tưởng phi vô sản", "không thông suốt";
hoặc nếu hay cải th́: có thái độ "không
tiếp thu", thậm chí "ngoan cố",
"chống đảng".
Những người này lập tức
được các cơ quan tổ chức cán bộ chú
ư,gạch chéo torng danh sách, nằm trong số cán bộ cá
biệt: "không thuần", "không thông
đường lối và chính sách", "có nhận
thức chống đối nguy hiễm", cần đặc
biết chú ư... Và suốt
đời họ được chiếu cố!
Cho nên mặc dù có khẩu
hiệu "tự do tư tưởng",
"người nói không có tội, người nghe lấy
để răn ḿnh", nhưng rất ít ai dám nói lên ư kiến
thật của ḿnh, việc học tập hết sức
là xuôi chiều, tán tụng, nói theo, chỉ nói ra những
điều ḿnh không hoàn toàn nghĩ như thế, giữ
kín những suy nghĩ lành mạnh, nh*~ng thắc mắc ngay
thật theo lương tri của mỗi
ngườị Cái tệ con
người "2 mặt", giả dối, không ngoan,
giữ ḿnh, "bị điều kiện hóa" dần
dần h́nh thành, ngày càng nặng nề và tệ hạị
Biết bao người
nhẹ dạ, cả tin, nêu lên những thắc mắc
về tư tưởng Mao Trạch Đông, về
nguồn gốc sai lầm trong cải cách ruộng
đất là tư tưởng nông dân, nghi ngờ về
chính sách cải tại công thương nghiệp, nói
đến bệnh sùng bái cá nhân của Stalin, và Mao,
"không thông suốt về đường lối cán
bộ lấy công nông làm cốt cán", để rồi
từ đó cứ bị định kiến, theo dơi, không
được lên chức, lên cấp, lên lương
nữa...
Nói và làm của
đảng Cộng Sản luôn cách xa nhau vời vợi...
3.0 Ảnh hưởng
của Đấu Tố Cải Cách Ruộng Đất
3.1 Khía cạnh kỹ
thuật
3.1.1 Tiêu diệt các
tầng lớp cũ
Trước tiên CCRĐ
với các màn đấu tố làm cho người dân sợ
hăi không dám chống đối việc tịch thu ruộng
đất . Một số hoạt động cải cách
ruộng đất trước đây đă bị dân
chống đối, thí dụ ở Thanh Hóa . Đặc
biệt tại Trung Quốc, các thôn xă có tinh thần gia
tộc rất mạnh . Một vài gịng họ có thể có
ưu thế cả về của cải lẫn uy tín trong
làng, xă nhiều thế kỷ v́ thế các cán bộ vốn
là thành phần thấp ở trong làng không đủ uy tín
để thuyết phục dân làng đi theo ḿnh mà tịch
thu ruộng đất, bắt giữ địa chủ .
Đấu tố là biện pháp của Mao Trạch Đông
đặt ra để giải quyết t́nh h́nh của
Trung Quốc . Tại Nga, nông dân cũng chống đối
lại việc tịch thu ruộng đất, tẩy chay
tập thể hóa và CS Nga cũng đă làm theo lối
của ḿnh là cô lập nguyên một địa
phương, không cho tiếp tế lương thực
để mặc cho toàn thể vùng bị chết đói
để về sau dân không dám chống đối nữa .
Các đợt CCRĐ liên
tiếp đă đem các tầng lớp trên ở nông thôn,
địa chủ, phú nông, trung nông xuống tận cùng
để hàng ngũ bần cố nông trung thành với
đảng CS lên cầm quyền trở thành tầng
lớp trên ở trong làng . Các nông dân bị ép buộc
phải tố và hành hạ địa chủ th́ về sau
họ sẽ khó mà hàn gắn lại với địa
chủ và chỉ c̣n cách phải trung thành với
đảng CS .
3.1.2 Tạo ra tâm lư sợ
tư hữu
Các cuộc đấu
tố với toàn thể nông dân phải tham dự chứng
kiến cảnh trừng phạt khủng khiếp cho
những kẻ chỉ v́ có ruộng đất mà trở
thành có tội làm cho người nông dân sợ hăi không c̣n dám
mơ đến làm chủ ruộng đất và chấp
nhận nộp ruộng cho hợp tác xă .
3.1.3 Đặc tính không
tôn trọng pháp lư của CCRĐ
Về mặt thi hành, các
vụ xử án đều không căn cứ vào sách vở,
luật lệ nào cả . Tuy các cán bộ đều
được dự các khóa huấn luyện giống nhau
và các cuộc đấu tố được tổ
chức theo như những ǵ họ được học
nhưng trong cách thực hiện nhiều chi tiết
được để mặc cho những người
dưới tự nghĩ mà làm v́ thế có nhiều khác nhau
giữa các địa phương trong việc định
thành phần , cách thức trừng phạt .
Nhưng đặc tính
không tôn trọng pháp lư không phải là chỉ của riêng
của chiến dịch CCRĐ mà là đặc tính chung
của chế độ độc tài toàn trị, trong
đó đảng cầm quyền tập trung
được quyền lực tuyệt đối trong tay
muốn làm ǵ th́ làm, không cần đến luật pháp .
Ngày nay người ta vẫn c̣n thấy đặc tính này
ở Việt Nam và Trung Quốc, và ảnh hưởng
của nó vẫn c̣n sót lại tại Nga sau khi chế
độ độc tài đă bị phá bỏ .
Trong số phản
ứng của giới trí thức về tính cách vô pháp
luật của CCRĐ có luật sư Nguyễn Mạnh
Tường đă viết:
“(1) Quan điểm ta
địch, thù bạn của ta rất mơ hồ . (2) Ta
bất chấp luật, lấy chính trị lấn áp pháp lư
. (3) Ta bất chấp chuyên môn”.
Và ông đề nghị:
“1) Một chế
độ pháp trị chân chính . 2) Một chế độ
thực sự dân chủ . 3) Một chế độ
tự do ngôn luận” .
Lời đề nghị
của ông không được nghe và ông bị chế
độ cô lập, không dùng, đẩy ông vào con
đường nghèo khó, túng thiếu suốt đời .
3.1.4 Lợi ích về
mặt tuyên truyền
3.1.4.1 Tạo ra cảm
tưởng CS thương dân nghèo .
Các vụ CCRĐ
được chính quyền ca tụng (lờ đi
đấu tố), cho đó là v́ đảng CS thương
nông dân nghèo mà làm và làm cho thế giới đứng ngoài
nh́n vào, có cảm tưởng là chính quyền CS lo cho dân
nghèo. Trên thực tế, các nông dân được chia
ruộng trong các vụ đấu tố đều
phải đem ruộng vào hợp tác xă và thuế nông
nghiệp được định cũng cao chẳng
khác ǵ mức tô mà địa chủ định cho tá
điền và có lúc c̣n cao hơn .
3.1.4.2 Tạo ra không khí
khủng bố .
Các buổi đấu
tố tạo ra không khí khủng bố làm người dân
sợ hăi khiến cho từ đó về sau, người
dân không dám căi lại chính quyền hay chỉ trích, phản
kháng chính quyền .
3.2. Khía cạnh
đạo đức
3.2.1 Giết quá nhiều
người
Điều đầu
tiên mà phần lớn mọi người nghĩ
đến khi nhắc đến CCRĐ là có quá nhiều
người bị giết . Có ước lượng là
khoảng 100 ngàn người bị giết, cộng thêm vào
đó là người thân trong gia đ́nh cũng bị
chết lây v́ bị cô lậpï .
3.2.2 Phá hủy các giá
trị đạo đức truyền thống
Các hành vi lăng nhục,
hành hạ con người trong các buổi đấu tố
vi phạm đến các giá trị đạo đức
cổ truyền của dân tộc . Tuy nhiên các chế
độ CS đều có chủ ư muốn phá hủy
đạo đức cũ mà họ là không c̣n thích hợp
với xă hội mới theo tinh thần XHCN mà họ
đặt ra theo chủ thuyết Mác xít – Lê nin nít , cho nên
ngoài CCRĐ ra th́ các chính quyền CS cũng c̣n các chiến
dịch khác để đả phá các luân lư, tập
tục, giá trị đạo đức truyền thống
.
Cũng nên bàn thêm ở
đây là nếu chiến dịch CCRĐ làm chết
nhiều người như vậy, và làm nhiều
người phẫn nộ th́ tại sao lại vẫn c̣n
có người trung thành với đảng CS và tiếp
tục hy sinh cả một đời để phục
vụ cho đảng CS ? Câu trả lời là người
CS có quan niệm về nhân đạo khác với quan
niệm nhân đạo thông thường . Các quan niệm
nhân đạo thông thường cho rằng nhân là nhân
với tất cả mọi người, không phân biệt
thành phần xă hội, của cải, dân tộc . C̣n quan
niệm của người CS là chỉ nhân với
những kẻ cùng giai cấp với ḿnh, tức là giai
cấp công nhân (trên lư thuyết), hoặc những kẻ
thuộc giới liên minh với giai cấp của ḿnh, c̣n
đối với những kẻ bị xếp vào loại
“kẻ thù của giai cấp” th́ không cần phải
thương xót . Theo cách nh́n đó th́ sự chết chóc,
đau khổ của “kẻ thù của giai cấp” là điều
cần thiết phải chấp nhận trên con
đường tiến đến “thiên đường
cộng sản” làm cho toàn thể nhân loại đời
đời sung sướng . Những người già,
trẻ con bị cô lập làm cho chết đói đều
được xếp và loại “kẻ thù giai cấp” v́
thế không cần phải thương xót . Trái lại ai
c̣n có ư thương xót là chưa thấm nhuần tính giai
cấp .
3.3 Khía cạnh Cách
Mạng Vô Sản
CCRĐ là một trong các
chiến dịch, phong trào đánh dấu cho sự khởi
đầu của giai đoạn Cách Mạng XHCN . Một
số phong trào khác là phong trào Chỉnh Huấn, phong trào
Đấu Tranh Chính Trị, được ghi lại trong
cuốn Từ Thực Dân Đến Cộng Sản
của ông Hoàng Văn Chí .
Theo lư thuyết,
người CS chia sách lược cách mạng vô sản
thành hai giai đoạn:
· Giai
đoạn Cách Mạng Dân Tộc Dân Chủ (DTDC).
· Giai
đoạn Cách Mạng Xă Hội Chủ Nghĩa (XHCN) .
Trong giai đoạn cách
mạng DTDC, đảng cộng sản phải cố
đoạt được quyền lực tại
nước của ḿnh. Nếu nước đó bị ngoại
bang đô hộ, th́ đảng CS phải đánh
đuổi ngoại bang để chiếm chính quyền.
Trong giai đoạn này, đảng CS có thể liên minh
với các tổ chức không cộng sản khác để
hợp lực đánh đổ thế lực đang
cầm quyền . Sau khi đánh đổ thế lực
đang cầm quyền th́ đảng CS sẽ loại
những thành phần đă liên minh với ḿnh để
độc chiếm chính quyền . Trong giai đoạn
đầu, tinh thần ái quốc là điều đảng
CS dùng để hiệu triệu quần chúng đi theo ḿnh
c̣n chủ nghĩa Cộng Sản có thể che dấu
chưa cần phô bày ra .
Giai đoạn XHCN là giai
đoạn đảng CS biến đổi xă hội thành
khuôn mẫu của theo cách mà người CS cho là đúng
với sự mô tả trong chủ thuyết Mác Xít . Các thành
phần xă hội cũ sẽ bị tiêu diệt hoặc
cải tạo để tạo ra một xă hội với
các thành phần mới . Các tư tưởng cũ sẽ
bị tiêu diệt để thay thế bằng tư
tưởng mới theo chủ thuyết Mác Xít .
Một số
người lên án chiến dịch CCRĐ đánh luôn
cả vào những địa chủ, đảng viên đă
có công với công cuộc kháng chiến chống Pháp và có công
với đảng CS cho rằng như thế là vô ơn.
Theo cách nh́n sách lược hai giai đoạn của
người CS th́ những địa chủ, các
đảng viên có liên quan đến địa chủ hay
từng lớp trên trong xă hội ở giai đoạn
đầu được công nhận là bạn của giai
cấp vô sản mặc dầu nh́n về mặt
đấu tranh giai cấp họ là kẻ thù của
người CS. Qua giai đoạn hai, th́ sự liên minh
với những người bị xếp vào hạng
kẻ thù không cần thiết nữa và những kẻ này
cần phải bị tiêu diệt, hoặc về thể
chất hoặc về mặt địa vị xă hội,
để đảng CS tiếp tục tiến lên trên con
đường tiến đến việc thực
hiện chủ nghĩa CS .
4. Kết luận
Chiến dịch CCRĐ
thật ra không phải là để cải cách ruộng
đất như tên gọi mà để khủng bố làm
cho dân sợ mà nghe lời một chính quyền độc
tài . Cải cách ruộng đất đă xảy ra tại
nhiều nước và tại miền Nam trước 1975
mà không có đấu tố, không gây chết chóc . CCRĐ
vẫn là một “thắng lợi” đối với
đảng CSVN, v́ nhờ dân quá sợ hăi mà chế
độ của đảng CSVN được bền
vững trong nhiều năm qua, nhưng là một
đại họa cho dân tộc .
CCRĐ cũng là
để phá hủy luân lư cũng như cơ cấu xă
hội truyền thống của Việt Nam để thay
bằng luân lư và cơ cấu xă hội theo quan niệm của
người CS, những quan niệm theo thuyết Mác Xít mà
họ tin là mới, là tiến bộ . Nhiều điều
trong những quan niệm đó ngày nay chế độ CS
tại Việt Nam và Trung Quốc đă phải bỏ
đi, chẳng hạn làm chủ ruộng đất không
phải là cái tội, thuê người làm việc cho ḿnh
không phải là cái tội, kinh doanh không phải là cái tội
... Các quan niệm Mác Xít đă không đứng vững
được với sự thử thách của thực
tế .
Với sự thất
bại của chính sách cai trị theo kiểu XHCN,
đảng CSVN cũng như đảng CS Trung Quốc
đă phải chia lại ruộng đất cho nông dân, tầng
lớp địa chủ lại bắt đầu
xuất hiện lại tại Việt Nam ngày nay. Các
chiến dịch CCRĐ đă phá hủy cơ cấu xă
hội, phá hủy đạo đức cổ truyền,
làm thiệt hại nhiều sinh mạng một cách vô ích .
Hoàng Cầm
Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi t́m
miếng ăn
Bố: cường hào
nơ. máu
Đă trả trước
nông dân
Mẹ bỏ con lay
lất
Đi tuột vào trong Nam
Từ khi lọt ḷng
mẹ
Ăn sữa, ngủ
giường êm
Áo hoa lót áo mềm
Nào biết ḿnh sung
sướng
Ngọn sóng đang trào lên
Ai nghĩ thân bèo bọt
Nhưng người
với con người
Vẫn sẵn ḷng thương
xót
Có cụ già đói khổ
Lập cập đi ṃ cua
:
Bố mẹ nó không c̣n
Bỗng thương t́nh
côi cút
Cụ nhường cho
miếng cơm
Chân tay như cái que
Bụng ph́nh lại
ngẳng cổ
Mắt tṛn đỏ hoe
hoe
Đứng nh́n
đời bỡ ngỡ :
- “Lạy bà xin bát cháo
Cháu miếng cơm,
thầy ơi!”
Có một chị cán
bộ
Đang phát động
thôn ngoài
Chợt nh́n ra phía ngơ
Nghe tiếng kêu lạc
loài
Chị rùng ḿnh nhớ
lại
Năm đói kém từ lâu
Chỉ mới năm
tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa
chợ
Chạy vùng ra phía ngơ
Dắt em bé vào nhà
Nắm cơm dành
chiều qua
Bẻ cho em một nửa
Chị bần cố nông
cốt cán
Ứa nước mắt
quay đi :
- ”Nó là con địa
chủ
Bé bỏng đă biết
ǵ
Hôm em cho bát cháo
Chịu ba ngày hỏi truy
“
Chị đội
bỗng lùi lại
Nh́n đứa bé mồ
côi
Cố t́m vết thù
địch
Chỉ thấy một con
người
Em bé đă ăn no
Nằm lăn ra
đất ngủ
Chị nghĩ : “Sau
lấy chồng
Sinh con bồng bụ
sữa”
Chị phải đ́nh
công tác
V́ câu chuyện trên kia
Buồng tối lạnh
đêm khuya
Thắp đèn lên kiểm
thảo
Do cái lưỡi không
xương
Nên nhiều
đường lắt léo
Do con mắt bé tẻo
Chẳng nh́n xa chân
trời
Do bộ óc chây
lười
Chỉ một màu sắt
rỉ
Đă lâu nằm ngủ
kỹ
Trên trang sách im ĺm
Do mấy con người
máy
Đầy gân thiếu
trái tim
Nào “liên quan phản
động”
“Mất cảnh giác
lập trường”
Mấy đêm khóc ṛng ră
Ngọn đèn soi tù mù
Ḷng vặn hỏi câu
hỏi :
“Sao thương con kẻ
thù?
Giá ghét đươ.c
đứa bé
Ḷng thảnh thơi bao
nhiêu!”
Hoàng Cầm