Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

Trích tiên

- Tâm Thanh -

 

Căn cứ không quân Banak trong một ngày hè uể
oải. Dưới nắng chói chang, đường bay trải dài
loang loáng như có ai khéo tạt một vũng nước
vuông vức ra tận vịnh Porsangen. Ba dăy trại sơn
trắng, ghép thành h́ nh chữ U nằm buồn như chợ
chiều. Cái hăng-ga khổng lồ đóng cửa im ỉm.
Tôi ngồi 'gác kiểng' trên đài quan sát, mường
tượng cảnh những chiếc máy bay F-16, F-5 tấp
nập lên xuống hồi Nato c̣n đóng ở đây. Bây
giờ chỉ c̣n đàn hải âu lười biếng lượn
trên bầu trời trong. Giá tôi có thể thả cho
đời trôi như thế. Tiếng chuông điện thoại
reo. Tôi hấp tấp bắt máy:
- Đài quan sát, phi trường Banak, tôi nghe đây ạ.
- Thân đấy hả? Nghe đây: Có một người Việt
Nam, đang ở pḥng cảnh sát Tana, không biết một
chữ Na-uy. Họ cần người dịch. Cậu có muốn
giúp họ không?
Tôi nói như trẻ con xí đồ chơi:
- Dạ, muốn chứ, thiếu tá.
- 'Muốn chứ' -ông thiếu tá có tật nhái lời,
lúc mới nhập trại tôi cứ tưởng ông kỳ thị,
rồi tiếp- Nửa giờ nữa có người lên gác
thế, anh xuống văn pḥng gặp tôi. Có trực
thăng tới đón.
Bỏ điện thoại xuống, tôi mới bắt đầu tự
hỏi: tại sao lại có người Việt nào lạc loài
lên miền địa đầu giới tuyến này? Tưởng
chỉ có ḿnh tôi điên. Chắc là một du khách
người Việt đi coi mặt trời đêm, quên đường
về? Hay là một người từ Nga nhảy rào xin tịn
nạn chính trị? Ôi! Nếu là một vụ tị nạn th́
thật hấp dẫn. Tôi nh́n cây kim đồng hồ treo
dưới chân dung quốc vương Harald và hoàng hậu
Sonja nhích đi chậm chạp.
Tôi thay đồ dân sự xong lên tŕnh diện. Ông
thiếu tá thấy vẻ hăng hái khác thường của
tôi, ṭ ṃ hỏi:
- Tại sao anh -tay tổ làm biếng- lại sáng mắt
lên nhận việc này?
- Lâu quá tôi không được gặp người đồng
hương.
Vâng, tôi đang phục vụ ở một nơi hẻo lánh cỡ
như Lạng Sơn của Việt Nam, nhưng trong ṿng 1000
cây số h́nh như chỉ có một người Việt. Và
lư do tôi vận động đi quân dịch, mặc dầu đă
quá tuổi ba ('t buộc, là v́ sau khi ra trường,
tôi xin việc mấy chục chỗ không được, đâm
buồn chán, trống rỗng, muốn đi thật xa một
phen. Hơi quá xa.
Từ băi trực thăng đi vào phố chỉ chừng 2 km.
Tana là một xă nhỏ cực bắc của Na-uy, giáp
giới Phần-lan, và là một trong những con đường
chính từ Nga sang. Từ vài năm nay, mùa hè ở
đây tràn ngập du khác h, nhiều nhất là người
Nga và Phần-lan. Người địa phương, phần đông
là thổ dân Same, nghe nói cũng gịng giống
Mông-cổ, nhưng so với dân Viking, không gần gũi
với tôi ǵ hơn. Xe chở tôi chạy qua một khu
chợ trời náo nhiệt. Sau ngày Liên bang Xô-viết
sụp đổ, người Nga tuồn cả núi quân nhu, quân
cụ ra bán. Nào là 'mũ nơm gà' Hồng quân Liên
xô, huân chương, áo giáp, ống ḍm, la bàn, nào
là quần áo nhà bin h, tượng Lê-nin, Xít-ta-lin,
bao cao-su ... được bày la liệt trên lề
đường, như một cuộc chiến vừa tàn. Ở vài
góc đường, những cô gái Nga -rất dễ phân
biệt với gái Na-uy nhờ nét mặt thanh tú, thân
người thon nhỏ- ăn mặc phong phanh, mời mọc. Có
lẽ đây là mấy cô mà bọn con trai trong trại
thường to nhỏ, xuưt xoa mỗi lần đi phép về, và
ông thiếu tá cũng đă cảnh cáo, nhưng vẫn không
yên tâm, bắt cả trại thử máu thường xuyên.
Ty cảnh sát nằm sau nhà thờ. Người đón tôi là
một ông trung sĩ cảnh sát, nhưng người điều tra
lại là một cô sĩ quan xinh đẹp, tóc ngắn, da dẻ
đỏ như đồng, chắc suốt mùa hè này chỉ tắm
nắng. Cô tự giới thiệu là Marianne. Vào
pḥng thẩm vấn, tôi vừa ngạc nhiên vừa mừng,
không hiểu tại sao, khi thấy 'đối tượng' thông
dịch là một cô gái. Cô đang ngồi quay lưng về
phía cửa ra vào, khi cô đu +'ng lên, quay lại, tôi
hoa cả mắt v́ vẻ đẹp khác thường. Bị hớp
hồn, tôi mở lời bằng một câu u mê:
- Cô người Việt?
Nàng cũng thẫn thờ:
- Anh người Việt?
Trong lúc chờ Marianne t́m thêm ghế, tôi nh́n
trộm đôi môi hồng vừa thốt ra những âm
hưởng Hà Nội ấm và sang, và nghĩ cái câu 'Anh
người Việt?' có thể dùng để chào nhau, thay
cho câu 'Bác xơi cơ m chưa?' của miền bắc Việt
Nam. Khi người nữ sĩ quan cảnh sát bắt đầu
gài mẫu biên bản lấy cung vào máy đánh chữ,
tôi hiểu đây không phải chỉ là vụ cớ mất
bóp hay du khách lạc đường, và trong tâm t rạng
của một người chín tháng nay chưa thấy mặt
người Việt Nam, tôi nghĩ bụng cô gái xinh đẹp
này ... oan, dẫu chưa biết sự cố liên quan
tới việc ǵ. Người sĩ quan bắt đầu:
- Cô tên ǵ?
- Natasja Jakusjok.
Tôi không nghe kịp tên họ, phải ch́a tờ giấy, xin
cô gái viết. Trong lúc Marianne so mảnh giấy cô
gái viết với tờ thông hành, tôi so nét mặt
thuần túy Việt Nam với cái tên Nga Natasja, ḷng
đầy nghi ho ặc. Marianne tiếp:
- Cô sang Na-uy làm ǵ?
- Du lịch.
- Từ bao giờ?
- Chiều thứ sáu.
- Bằng phương tiện ǵ?
- Xe buưt.
- Khởi hành từ đâu?
- Murmansk.
- Ai mời cô sang Na-uy?
- Tôi tự sang.
- Không có ai từ Nga tự sang Na-uy được. Phải
có người từ Na-uy mời, lănh sự quán của chúng
tôi ở Murmansk mới cấp phép nhập cảnh.
- Tôi mà được mời?
Marianne tỏ vẻ nửa ngạc nhiên, nửa thất vọng.
Tôi tự nhiên đâm thông minh hơn thường lệ
một chút, dịch chữ 'mờí thành 'bảo lănh', và
nhắc lại câu hỏi. Quả nhiên người đồng
hương hiểu ư, trả lời:
- Tôi không biết tên người bảo lănh.
- Cái tên đó cô phải biết để viết đơn xin
chiếu khán.
- Tôi không viết đơn.
Marianne như sắp chụp được con mồi:
- Đó. Tôi muốn hỏi người nào viết đơn giùm
và tổ chức chuyến đi cho cô?
- Tôi không biết. Tới phiên th́ tôi mua vé xe.
Người bán vé chỉ cho tôi đi xe nào, tôi lên xe
đó.
Người nữ cảnh sát thất vọng, xoay mặt lại cái
máy chữ từ năy đến giờ nằm thất nghiệp,
lùa tay vào mái tóc nâu. Tôi quay sang Natasja.
Tia mắt tôi chạm phải bàn tay cô trắng nuột nà
đặt trên đ ùi, tôi quay đi chỗ khác. Nhưng
rồi trong lúc dịch tôi không thể tránh nh́n vào
một trong hai người. Tôi nảy ra một so sánh:
lúc mới gặp cô cảnh sát, tôi thấy cô đẹp như
một nữ tài tử đóng trong các ph im James Bond;
lúc này ngồi cạnh cô gái Việt, cô trông như
một nữ t́. Nhưng người 'nữ t́' đă quay phắt
lại, nghiêm nghị, dằn từng tiếng:
- Chúng tôi bắt được quả tang cô bám dâm.
Tôi hụt hẫng, bàn tay co giật, loại co giật mà
tôi thường gặp khi rơi từ cơn chập chờn vào
giấc ngủ sâu, hoặc như khi đi đường băng trơn
với em gái, mà nó bị trượt. Tôi sượng sùng,
dịch 'bán dâm' thành 'tiếp khách'. Nhưng hai
tiếng này cũng đủ như một tảng đá tṛng vào
cổ, cô gái Việt cúi đầu xuống. Đầu tôi cúi
theo. Một tiếng nhỏ, khàn đục bật ra từ khóe
môi lợt lạt:
- Phải ...
Cô thú nhận với người cảnh sát Na-uy, nhưng theo
thói quen, cô quay sang người thông dịch tội
nghiệp. Mắt cô mở lớn, trong vắt, van lơn.
Lồng ngực tôi đ̣i lấy hơi để trút một
tiếng thở dài, nhu +ng tôi cố nín, và càng khó
chịu hơn. Và khoảng cách giữa tôi và người con
gái đồng hương trở nên bồng bềnh như một
mạn thuyền với một cánh bèo trên biển sóng,
lúc xa, khi gần. Tôi không làm nghề tho ^ng dịch,
nhưng hồi c̣n đi học, thỉnh thoảng tôi có đi
dịch để kiếm tiền tiêu vặt. Trước khi
được nhận làm, tôi phải học mấy giờ về luân
lư chức nghiệp. H́nh như tôi nhớ được đôi
điều, và bây giờ tôi nhủ ḷng ḿnh 'Đây không
phải việc của tôí. Cuối cùng cô gái 'Natasjá
tiếp:
- Nhưng ... luật pháp Na-uy không cấm việc này
... có phải không?
Phản ứng bớt buông xuôi của Natasja khiến tôi
ngạc nhiên. Marianne nghe vậy, lại trở nên hăm
hở:
- Đúng. Luật pháp Na-uy không cấm việc măi dâm,
nhưng cấm hoạt động ma cô. Chúng tôi cần
biết ai làm ma cô cho cô?
- Không ai làm ma cô cho tôi cả.
- Thôi. Xin hỏi câu khác: Cô vừa nói luật pháp
Na-uy không cấm măi dâm, mà cấm ma cô. Ai nói
cho cô biết điều này vậy?
- Bạn bè.
Quanh đi quẩn lại, rơ ràng là cô cảnh sát chỉ
muốn tóm cổ mấy thằng ma cô. Nhưng có gái
giang hồ nào giám chỉ điểm ma cô của ḿnh?
Hồi năy khi đi qua khu chị em ta, tôi cũng thấy
những bộ dạng khả nghi, chẳng phải người địa
phương, cũng chẳng phải du khách hay người thập
phương tới buôn bán. Cảnh sát cũng dư biết như
thế, có lúc gặp tên ma cô nhâng nháo quá, họ
ngứa mắt, đă bắt thử, nhưng cha (?ng có chứng
cớ, phải thả ra cho nó nhâng nháo thêm. Cơ hội
duy nhất cho biện lư cuộc là lời khai của các
cô gái giang hồ. Nhưng các cô ấy, nhất là cô
gái lạc loài ngồi trước mặt tôi đây, làm sao
dám nói? Tôi ngước lên nh́n Natasja, gặp đúng
lúc cô cũng ngước lên nh́n tôi - trong đôi mắt
sâu ấy, cô đang chới với. Marianne ḍm lăm lăm
vào tờ biên bản gài trên máy chữ như để moi
ra câu hỏi mới. Cu ối cùng cô ta chuyển đề
tài:
- Cô có quốc tịch Nga, nhưng sanh tại Việt Nam?
- Vâng
- Cô lấy chồng Nga?
- Vâng.
Marianne ráng tỏ ra kiên nhẫn:
- Cô Natasja ạ, chúng tôi không bao giờ làm ǵ hại
cô. Chúng tôi chỉ muốn biết tên và có bằng
chứng truy tố bọn ma cô. Vậy cô cứ nói cho
tôi biết ai đă đưa cô tới đây?
Natasja ngơ ngác:
- Đưa tới đâu cơ?

Marianne nói muốn nghỉ giải lao mươi phút, trong
khi đó tôi phải ra văn pḥng làm thủ tục tính
thù lao. Marianne gặp tôi ở pḥng khách lúc tôi
định lấy tách cà phê cho tôi và có lẽ một tách
cho cô gái. Cô hỏ i chuyện lính tráng của tôi,
về người tị nạn Việt Nam ở Na-uy. Câu
chuyện lan man sang việc, vào năm 93, cô tham gia
chiến dịch vĩ đại chuẩn bị cho trường hợp
một triệu người Nga tràn vào Na-uy tị nạn chính
trị hoặc nạn đói. Một nhà báo nổi tiếng dí
dỏm gọi chiến dịch đó là 'cuộc chuẩn bị đón
tiếp các công dân của Thiên Đường đở vỡ'.
Việc đó may không xảy ra, nhưng lại xảy ra một
cuộc xâm thự c dưới h́nh thức khác. Cô hỏi
tôi có biết về các tệ nạn biên giới? Tôi
nói có đọc loạt phóng sự của nhật báo
Aftenposten và Verdens gang về việc người Nga sang
đây buôn bán ma túy, rượu mạnh, quân nhu quân
dụng, và măi dâm. Tôi hỏi:
- Nghe nói có thể mua bất cứ thứ ǵ?
- Đúng. Từ sau khi Liên-xô sụp đổ, người ta
có thể mua mọi thứ, thứ dữ như bom nguyên tử,
súng máy, xe tăng, tầu ngầm... Thứ hiền như
đồ chơi. Đồ chơi rẻ tiền có huân chương
Anh hùng Liên-xo ^, huân chương Lê-nin, Anh hùng dân
tộc, Anh hùng lao động. Và đồ chơi đắt tiền
là các cô này.
- Bao nhiêu mà đắt?
- Từ 200 tới 500 kroner một đêm.
Tôi nghĩ tới Natasja. Theo cái giá mà văn chương
Trung Hoa và Việt Nam đề ra, cô ta phải đáng
'ngàn vàng' là ít. Tại sao xuống tới mức này?
- Giá đó tương đương với 2 tới 5 giờ làm
việc của một người thợ Na-uy. Có ǵ mà gọi
là đắt?
- Chỉ một cuối tuần các cô gái buôn hương
kiếm được số tiền bằng lương một năm của
một người thợ trung b́nh ở Nga.
- Vậy sao quí vị không để cho người ta kiếm
ăn?
- Chúng tôi không muốn làm khó dễ các cô gái.
Chỉ muốn trừ khử bọn ma cô.
- Nghĩa là nếu các cô ấy làm ăn độc lập th́
được phép?
- Được.
- Cô thử hỏi cô gái tại sao không làm ăn độc
lập?
- Cần ǵ hỏi. Tôi biết họ không thể nào làm
ăn độc lập được. Người dân Nga tránh vỏ
dưa gặp vỏ dừa. Họ vừa thoát ách độc tài
cộng sản, đă rơi vào nanh vuốt Mafia. Báo cáo
của hội đồng an ninh kinh tế (NSR) cho biết 4/5
xí nghiệp Nga phải trả tiền bảo vệ cho Mafia.
Ta không cần hỏi đồng hương của anh câu đó.
Marianne nh́n đồng hồ, ư muốn chấm dứt giờ
giải lao, nhưng lại đứng thêm một lát hỏi về
người Việt ở Nga. Tôi không biết ǵ ngoài
những bài phóng sự về t́nh cảnh những người
được chính quyền Việt Nam gởi đi nước ngoài
lao động trả nợ chiến tranh, và công thức trả
lương: một phần phát cho công nhân, một phần
Nhà Nước Việt Nam 'lấy thảó. Sau đó khi bức
màn sắt sụp đổ, nhiều ngưo +`i ở lại phải
xoay xở chật vật để sinh sống, kể cả
việc phi pháp và măi dâm.Và tới phiên người
khác lấy thảo.

Tôi mang cà-phê vào cho Natasja, nhưng cô để
nguội tanh không uống. Marianne tiếp tục lại
cuộc thẩm vấn. Nhưng câu chuyện về sau biến
thành một cuộc mạn đàm nhiều hơn. Sau cuộc
thẩm vấn, Marianne tự độ ng nói với tôi:
- Chắc anh muốn nói chuyện riêng với người
đồng hương? Cứ ngồi đây mà nói. Anh không
phải thông dịch viên chính thức, chúng tôi nhờ
vả anh trong trường hợp đặc biệt, nên đền
công đặc biệt. Nhân tiện, tôi nhờ anh nói cho
cô ấy biết theo luật pháp Na-uy cô ấy không làm
điều ǵ bậy cả. Cô ấy đẹp và hiền quá.
Tôi ngồi lại, không hiểu v́ động lực nào - v́
ṭ ṃ hay tội nghiệp, v́ đây là một người con
gái đẹp hay một đồng hương? Marianne đă khép
cửa văn pḥng lại. Bỗng nhiên tôi hoang mang,
không biê 't tại sao ngày hôm nay, giờ này ḿnh
ngồi đây với một cô gái lạ. Tôi nghĩ có thể
Natasja cũng có cảm giác đó, khi cô loay hoay sửa
lại thế ngồi, rồi lại trở về thế cũ. G̣
má cô từ từ ửng hồng. Cô mở lời rụt rè:
- Anh là người tị nạn ra đi từ miền Nam?
- Dạ.
- Nghe cách ăn nói đủ biết.
- C̣n cô? Chắc từ Hà Nội?
- Vâng.
- Nghe giọng nói đủ biết.
Lần đầu tiên chúng tôi cùng cười nhẹ. Cô
tiếp:
- Ở đây đông người Việt không?
- Chỉ có ḿnh tôi đi quân dịch lên đây. Cách
đây 500 cây số có một ông bác sĩ lên phục vụ
để lấy thâm niên. Ngoài ra nhóm người Việt
gần nhất ở cách đây chừng 1000 cây số.
Khi nêu những khoảng cách xa xăm, bỗng tôi cảm
thấy cô gần lại một chút. Cô nói, do dự:
- Tôi ... e ..m tên Quỳnh Hương.
- Tên đẹp quá. Tôi tên Thân.
- Anh có trách em không?
- Tại sao lại trách?
- Em làm xấu hổ chung.
Tôi cảm thấy ḿnh vụng về, không t́m được
lời, chỉ biết nói:
- Cô cảnh sát nhắn tôi nói lại: Cô không làm
điều ǵ bậy cả, theo luật pháp Na-uy. Cô ấy
c̣n khen chưa thấy ai đẹp và hiền như cô.
'Chưa thấy aí là ba chữ quá giang, nhưng thực
t́nh không quá tải. Quỳnh Hương cảm động, nét
mặt bớt căng thẳng. Nhưng giữa chúng tôi có
cái ǵ thiếu tự nhiên, câu chuyện không hào
hứng như tôi t ưởng tượng lúc ngồi trên trực
thăng đáp xuống Tana, và nhất là giây phút đầu
tiên thấy mặt cô gái.
V́ lịch sự tôi vẫn cho cô địa chỉ và số
điện thoại, dặn cần ǵ có thể liên lạc. Tôi
ra ngoài móc hết tiền bạc trong túi -h́nh như dăm
trăm- bỏ vào một phong b́, viết mấy chữ an ủi
nhờ Marianne đưa cho cô gái.
Quỳnh Hương thất thểu theo một người nữ cảnh
sát khác ra khỏi bót. Tôi đứng nh́n cô đi về
phía nhà thờ, lủi thủi. Tôi tưởng tượng ra
cô gái làng chơi Magdalena trong Thánh kinh trên
đường đi t́ m Chúa Giêsu để thú tội.

Nhưng cô có tội t́nh ǵ? Câu hỏi thành h́nh từ
khi tôi ngồi lên trực thăng, và nó cứ lớn dần
từng ngày khi tôi trở về trại. Tôi càng mong
đợi càng bặt tin Quỳnh Hương. Tôi đinh ninh
thể nào cô về cu ~ng viết thư ngay cho tôi để
cám ơn nghĩa cử, để tôi có thể nói những
lời tốt đẹp, kể cả lời hứa giúp đỡ. Tôi
c̣n tưởng tượng ra câu chuyện về một chàng
thanh niên hào hoa, đóng ở 'tiền đồn heo hút',
t́nh cờ gặp một cô gái giang hồ và cảm hóa
được nàng đi tu thành ma sơ thánh thiện. Không
ngờ một tuần, hai tuần, rồi một tháng trôi
qua, không có tin cô. Rơ ràng cô đă nhét địa
chỉ tôi ch o vào bóp. Ngoài ra, trên phong b́
tiền tôi cũng quen tay ghi tên và địa chỉ một
lần nữa.
Chờ đợi, băn khoăn, cuối cùng là hối hận.
Tôi đă quá lạnh lùng, đă thay đổi thái độ
quá nhanh sau khi biết cô là gái giang hồ. Tất
cả chỉ xảy ra trong ḷng tôi, nhưng tránh sao cô
chẳng linh cảm d dược. Nét mặt thông minh ấy.
V́ trịch thượng ngầm, tôi không nghĩ tới việc
xin địa chỉ cô.
Năm tuần sau, tôi nhận được lá thư đóng dấu
bưu chính Murmansk. Tôi mừng như được thư
người t́nh, leo lên tháp canh đọc cho ... thấm.
Nhưng đọc thư xong tôi vô cùng thất vọng. Nét
chữ xấu xí qu ê mùa, lời lẽ t́nh nghĩa kệch
cỡm, nghe rợn tóc gáy. 'Chủ đề' của thư
đương nhiên là xin gởi tiền ('bằng tiền
Norwaư) về địa chỉ v.v. Tôi nổi giận, xé lá
thư vất vào sọt rác. Không thể ngờ đượ c
bộ mặt xinh đẹp như thế lại mang tâm hồn bần
tiện như vậy. Dù cố thử biện hộ cho cô
gái bằng lư luận 'cái khó bó cái khôn', tôi
vẫn chán ghét cô gái, ê chề t́nh đời, tôi
chán ghét cái vùng đa ^'t mất hết t́nh người.
Đau nhất là con người lăng mạn của tôi bị
'quế nặng quá. Hết phiên gác, việc đầu tiên
là tôi về pḥng để hủy cái dấu vết cuối
cùng về cô gái bất xứng - miếng giấy vie ^'t
hai chữ Natasja Jakusjok. Đó là miếng giấy mà cô
gái viết tên trong bót cảnh sát, đi Tana về tôi
gắn trước bàn viết để kỷ niệm một buổi
gặp gỡ... hay hay. Nhưng khi gỡ miếng giấy,
cầm trên tay, to ^i bỗng giật ḿnh - nét chữ này
thanh tao, nhuyễn mềm, khác xa một trời một vực
với nét chữ thô lậu, tục tằn trong thư tôi
vừa xé. Tôi tức tốc chạy lên đài quan sát,
lục lại lá thư. Chẳng cần so lạ i tuồng chữ,
tôi cũng biết thư này không phải do Quỳnh Hương
viết. Tôi 'sang' hết mấy lời xỉ vả hồi năy
cho bọn bất lương, và nôn nả bắt tay vào việc
t́m tung tích Quỳnh Hương.
Sau buổi thông dịch, tôi thỉnh thoảng có điện
thoại cho cô cảnh sát Marianne, vừa để tán gẫu
chơi, vừa thăm ḍ xem 'ngựa có về đường cũ
không'. Bây giờ muốn biết địa chỉ thật của
Quỳnh Hương t ôi chỉ việc hỏi Marianne. Nhưng
tôi không được phép làm như vậy. Tôi thử
làm điệp viên si t́nh một phen. Một mặt tôi ra
ngân hàng gởi 300 kroner cho bọn làm tiền, tất
nhiên dưới tên Natasja Jakusjok. Na-uy đang mở
rộng việc làm ăn với Nga, để biến đổi bán
đảo láng giềng Kola thành một vùng bớt nghèo
đói và ô nhiễm, nên có rất nhiều hăng xưởng
và ngân hàng Na-uy mọc lên hai bên đại lộ
Lê-nin. Tôi c họn gởi tiền qua ngân hàng Kirkenes,
v́ nó nằm đối diện với một khách sạn. Gởi
tiền đi hôm trước, hôm sau tôi đáp xe đ̣ đi
Murmansk và thuê khách sạn đó, pḥng có cửa sổ
quay ra mặt đường. May mắn quá mong đợi, ngày
ŕnh chực thứ ba tôi đă thấy bóng Quỳnh Hương
ra ngân hàng. Tôi không cần ngụy trang nhiều, chỉ
cần cái quần soọc, cái mũ lưỡi trai, và cái
máy Nikon là ra dáng một anh triệu phú Nhật Bổn
rồi. Phải thêm cái kính mát to để che mặt.
Vào ngân hàng tôi đứng xa xa, thấy Quỳnh Hương
đang xếp hàng quay lưng lại, tôi cẩn thận không
lộ diện, nhỡ có tên cô hồn nào đi kềm nàng
không. Khi nà ng lănh tiền xong quay ra, tôi đau
nhói tim thấy mặt nàng tiều tụy, và có vết
bầm xanh. Một tên đàn ông mặt mũi bất lương
ở đâu sán lại kè nàng, chưa ra khỏi cửa, nó
đă giằng lấy tiền, chửi thề 'Đ .M. có mấy
đồng ranh mà nàm nhọc xác ông'. Quỳnh Hương cúi
đầu, không trả lời. Tôi lén theo dơi hai
người, nhưng tới ngă tư th́ họ lên một chiếc
xe hơi do người thứ ba lái chạy mất tăm, tôi
đón taxi k hông kịp.
Tôi thất vọng trở về Na-uy, viết thư làm bộ
nói nhớ thương Natasja và mong gặp nàng, bóng gió
cho biết sang sẽ dễ dàng mang tiền về hơn.

Nàng sang thật. Vết bầm trên mặt đă biến
mất, nhưng vẫn c̣n tiều tụy. Tôi đưa nàng
thẳng vào một khách sạn đàng hoàng cho nàng nghỉ
ngơi. Chúng tôi ăn ngay trong khách sạn. Nàng
ngạc nhiên vô cùng khi to ^i nói tôi biết hết tṛ
giả mạo thư và làm tiền của bọn vô lại. Nhưng
tôi thắc mắc:
- Tại sao chúng biết cô có liên hệ với tôi?
- Em vừa từ biên giới về, chúng nó lục lọi
khám xét ngay, và tất nhiên thấy phong b́ tiền
của Anh cho, địa chỉ nằm đó. Chúng bắt em
viết thư ṿi tiền, em không làm, chúng đánh
đập, bắt trở lại đứng đường. Em xin làm
mọi việc trâu ngựa để hầu hạ cả bọn miễn
đừng bắt em làm việc đó. Chúng chấp thuận
nhưng vẫn giả mạo thư tống tiền Anh. Em xấu
hổ quá.
Tôi hỏi một câu mà định hỏi mấy lần nhưng
chưa có dịp:
- Cô sang Nga theo diện nào?
- Nghiên cứu sinh. Nghiên cứu sinh sử học.
Tôi kinh ngạc:
- Nhà Nước Việt Nam gởi đi?
- Vâng.
Tôi nhớ lại việc thông dịch, hỏi:
- Sao cô không nói tiếng Nga, dễ kiếm người
thông dịch ngay tại đây?
- Em muốn giấu tông tích. Chẳng may...
Tôi hơi phật ư về hai chữ 'chẳng maư, nhưng
không tỏ ra, hỏi tiếp:
- Cô... xong tiến sĩ chưa?
- Thưa, rồi ạ.
- Vậy cô chỉ việc trở về phục vụ đất
nước.
- Trễ rồi.
- Sao vậy?
Quỳnh Hương hít hơi thật sâpu, như để
đè nén cái ǵ, cuối cùng nói nhẫn nại:
- Truyện dài lắm. Em chỉ vắn tắt thế này:
Khi em đang chuẩn bị về nước, th́ bố em bay
sang nói bất cứ giá nào đừng về.
- Tại sao vậy? Ở Việt Nam bây giờ thay đổi
khá lắm, và bắt đầu đăi ngộ những người
có tŕnh độ.
- Lợi dụng th́ có, đăi ngộ không.
Chúng tôi ra ban-công. Nắng đêm quyện vào gió
bắc cực lùa vào mặt mát rượi. Tóc Quỳnh
Hương thơm. Tôi hỏi:
- Ngoài ra bố cô nêu lư do ǵ để khuyên cô
đừng về nước?
Nàng nh́n con hải âu đậu một ḿnh trên cột
đèn, đáp:
- Là lư luận gia lâu năm của Đảng, khi thấy bức
tường Bá-linh rạn nứt và thiên đàng Liên-xô
sắp bốc lửa, Bố em dự kiến Đảng cộng sản
Việt Nam sẽ biến từ một tổ chức cách mạng
thành một g uồng máy tư bản.
- Vậy càng tốt chứ sao?
- Anh không hiểu đâu, cũng như em hồi đó không
hiểu. V́ thế Bố phải đích thân bay sang. Gặp
Bố em vừa mừng vừa ngạc nhiên hết sức, nhưng
run sợ khi ông nói nước Việt Nam sẽ không c̣n
là nơi du ng thân của con người nữa.
- Sao vậy
- Bố hỏi em 'Chị xem - cái thiên đàng kiểu mẫu
mà sắp sụp đổ nay mai, th́ cái thiên đàng mô
phỏng sẽ ra sao?' Em không trả lời, ông nói 'Các
ông ấy là những kiến trúc sư chuyên vẽ thiên
đàng. Kiể u này đổ vẽ kiểu khác. Mà mỗi
lần đổ, mỗi lần đổi kiểu là hàng vạn
người chết v́ cột kèo đè.' ... Bố em về,
tự vẫn chết, để họ không c̣n gây sức ép
với em được, trước khi bị cột kèo d dè.
Nghe đến đây, tôi lạnh toát xương sống, khô
cổ họng. Cột đèn đằng trước, con hải âu
đă bay đi, c̣n cái tay đèn đua ra, như chờ một
sợi dây tḥng lọng. Măi lâu sau tôi mới thốt
lên được câu gần như vô nghĩa:
- Khủng khiếp quá!
Quỳnh Hương mím môi để khỏi bật ra tiếng
khóc, nhưng giọng ướt lệ:
- Người ở ngoài không hiểu nổi sự khủng
khiếp tới mức nào đâu. Người trong cuộc, đa
số khi hiểu th́ trễ quá rồi.
Vai tôi chờ một mái đầu tựa vào. Nhưng tôi
phải làm như tỉnh táo, hỏi:
- Với cô, có quá trễ chưa?
- Em không biết. Nhưng để em kể em đă sa
xuống chỗ nào. Lúc đầu em may mắn trên con
đường tị nạn. Ông giáo sư đỡ đầu cho em li
dị vợ để cưới em. Anh đừng trách em. V́
ông ta li dị xong mới c ho em biết đă có vợ và
mới li dị. Ở Nga, li dị là chuyện cơm bữa,
cũng như chuyện trai gái chung chạ. 30% các cặp
vợ chồng li dị. Việc làm t́nh hổ lốn trở
thành phổ thông là v́ t́nh trạng ăn chung ở c
hạ, nhà cửa chật chội. Chồng em là một tên
ghiền rượu, đánh đập em măi, em vẫn chịu
đựng được. Nhưng hai ba lần em bị anh họ
chồng, em chồng, rồi cả bố chồng cưỡng
hiếp, th́ anh bảo sao em chịu d dược? Em phải ra
đi, và sa vào tay Mafia.
Tôi lại ớn lạnh. Không phải v́ gió đêm. Mà v́
nhớ chúng tôi đang ở gần biên giới. Tôi d́u
Quỳnh Hương vào trong. Đóng cửa sổ lại.
Chúng tôi im lặng uống một thứ rượu kem ǵ
đó khá ngon. Tôi quyết định ngày mai ra lănh sự
quán bí mật làm giấy bảo lănh hẳn cho Quỳnh
Hương sang Na-uy. Điều làm tôi do dự là cái
giấy hôn thú. Trước khi về pḥng riêng, tôi
đắp mền cho Quỳnh Hương như một đứa em gái
và nói:
- Ngủ ngon. Đừng mộng mị ǵ cả, dù thiên
đường.

Quỳnh Hương sang chơi Na-uy lần kế tiếp vào ngày
lễ Sankthans, ngày dài nhất, đúng hơn, không có
đêm. Nàng từ xe buưt Murmansk bước xuống, ăn
mặc đơn giản, càng xinh đẹp hơn. Nàng tha
thướt đi giữa nhữn g huân chương và mũ áo
Hồng quân bên vệ đường, tàn tích của một
thiên đường vừa đổ vỡ, diễm lệ như một
nàng tiên, tôi đặt tên cho nàng là 'Trích Tiên'.
Khi tôi nói ra, nàng cười tươi, chấp nhậ n.
Từ đó cuối tuần nào nàng cũng qua. Thường
tôi đưa nàng về căn cḥi thuê của xă ở sườn
núi trông ra biển, rất thơ mộng. Từ mùa thu
không c̣n mặt trời giữa đêm nữa, nhưng rừng
thu biến thà nh những tảng màu đỏ, vàng tuyệt
diệu. Vài cánh buồm trắng nhẹ trôi trên mặt
nước xanh lộng bóng núi. Ban đêm trời trong,
trăng sao vằng vặc chiếu xuống vịnh bao la.
Chúng tôi ngồi bên nhau ngoài hiên n ói chuyện
tới khi sương ngập thềm. Tôi gọi căn cḥi này
là 'Động Tiên', muốn vĩnh viễn ở lại không
về trần gian. Nàng 'trích tiên' thỉnh thoảng lại
khóc làm tôi lo lắng. Nhưng nàng nói:
- Xin lỗi Anh, em khóc chỉ v́ quá hạnh phúc.
Tôi uống những giọt hạnh phúc này từ mắt nàng,
và nói:
- Đây là nước mắt hạnh phúc. Nhưng nước mắt
đau khổ của Em, anh cũng xin uống.
Chúng tôi chỉ ước có phép mầu cho thời gian và
không gian ngừng ở đây. Lạ lùng là những
lúc tôi gần gũi Quỳnh Hương trên cḥi nghỉ mát,
tôi chỉ say sưa nh́n ngắm, lắng nghe, ngửi
hương nàng, không xàm xỡ. Tôi sống sự hiện
diện nàng. Sự sống nồng nàn, ngây ngất mà
thanh khiết. Tạo hóa đă khắc cho nàng một chân
dung kỳ diệu - từng nét th́ đối chỏi mà toàn
thể th́ hài ḥa. Các nhà giải phẫu thẩm mỹ
không bao giờ làm được như vậy. Chỉ có Nhà
Điêu khắc tối ca o, thừa thương yêu và tinh
quái mới nắn nên khuôn mặt và thân thể Quỳnh
Hương - để tặng riêng tôi, cho riêng mỹ cảm mà
Ngài tạo cho tôi. Và Ngài gởi tặng phẩm tới
cho tôi qua con đường sầu thảm quá. Con đường
các phép lạ thường đi.
Khốn nạn thân tôi (tiếng Bắc của Quỳnh Hương),
nỗi đam mê lành thánh kia, tôi chỉ giữ được
khi có sự hiện diện của nàng. Khi nàng qua lănh
thổ Nga, tôi trở về trại Banak, th́ xác thịt
tôi giằn va (.t, réo gọi. Tôi quằn quại trong
giường lính độc thân, thèm khát thân h́nh nuột
nà cô gái giang hồ Natasja. Xác thịt tôi trách
móc tôi đă dại dột bỏ qua cơ hội nọ, cơ hội
kia trên Động Tiên. Cho tới kh i tôi ngủ thiếp
đi. Có vài lần trong mơ . . . Nhưng thường trong
mơ tôi thấy nàng Trích Tiên mặc áo dài trắng
tinh khiết trổi lên từ gịng nước trong xanh
vẫy gọi tôi. Phải chờ tới buổi sáng, khi mặt
t rời mọc, rọi sáng vào những góc tăm tối trong
tâm hồn, tôi mới thực tỉnh táo, và hănh diện
cuối tuần trước đă giữ ḿnh đứng ngoài cái
gịng đục lềnh bềnh những xác bố chồng, xác
anh, xác em chồn g nàng, và những thiên đường
mà nàng đang vùng vẫy thoát ra. Đúng hơn, chúng
đẩy nàng ra như một vật lạ trong cơ thể.
Chỉ có một lần tôi táo bạo, lần đi thăm
Nordkapp. Nordkapp hay 'Mũi Bắc' nằm trên vĩ độ
cao nhất nước, có lẽ là kỳ quan Na-uy thu hút
nhiều du khách nhất. Mỗi năm, hàng vạn người
từ khắp thế giơ 'i, nhất là Nhật, Đức, Mỹ
mua vé máy bay lên đây, chỉ để coi mặt trời
đêm. Lúc tôi đưa Quỳnh Hương đi thăm Mũi Bắc,
trời đă sang đông, không c̣n du khách nào nữa,
cũng không c̣n mặt trời đêm. Tôi n ắm tay
Quỳnh Hương đứng trên ghềnh đá vách dựng
đứng. Nước biển vẫn thăm thẳm. Gió lạnh
buốt. Nhưng chúng tôi càng thích thú. Bỗng
nhiên, mây trên trời biến thành màu xanh như lân
tinh, và quay tít nhu + đèn kéo quân, hào quang lấp
lánh rực rỡ, những luồng điện nổ tí tách
trong mây như hàng ngàn tràng pháo chuột ngày
Tết. Quỳnh Hương kinh sợ nhưng lại reo vui v́
có tôi bên cạnh. Tôi giải thích:
- Đó là nordlys (bắc quang). Hiện tượng huy
hoàng này không phải lúc nào cũng xảy ra. Hôm nay
nó xảy ra đúng lúc Em tới đây. Đó là dấu
hiệu Trời cũng muốn chào đón Em đó.
Quỳnh Hương tựa lưng vào ngực tôi. Giọng nàng
mật ngọt:
- C̣n Anh, Anh cho em dấu hiệu ǵ?
Cầm ḷng chẳng đậu, tôi xoay người nàng lại,
và hôn vào đôi môi nồng nàn. Đó là lần đầu
tôi hôn một người con gái. Trên mỏm đá lịch
sử Nordkapp, dưới ánh bắc quang.

Chỉ c̣n một tháng nữa là Tết ta. Thu An gọi
điện thoại nhắc thế nào tôi cũng phải xin về
phép cho kịp ngày cúng Giao Thừa. Thay v́ nói
trong điện thoại, sợ không đủ mạch lạc và
không đối đáp được co n em lí lắt, tôi viết
cho nó một thư dài 6 trang tŕnh bày ư định mời
Quỳnh Hương về Oslo ăn Tết. Tất nhiên trong thư
tôi dấu một số chi tiết về thảm cảnh của
Quỳnh Hương, nhưng tên 'Trích Tiên' th́ khô ng
thể không khoe. May quá con bé chấp thuận
liền, c̣n hào hứng chuẩn bị đón 'chị dâú.
Tôi nói tuyệt đối nó không được ... lạc quan.
Gia đ́nh chúng tôi đă nhận bao nhiêu tai họa bất
ngờ, đúng trong nhu +~ng lúc tưởng là hạnh
phước nhất. Tết Mậu Thân Ông Nội đang công
tác ngoài Huế bị cộng sản Bắc Việt bắt đi
chôn sống, đúng lúc ông được điện tín về
mà coi mặt và đặt tên cho cháu đích tôn l à
tôi; Bà Nội đi bốc xác Ông, về phát điên rồi
mất. Năm 75 con Thu An vừa sanh ra, để trong cái
biệt thự thơ mộng Ba Má mới mua ở Chí Ḥa
mấy năm sau 'có một tiểu thư ra vàó, th́ cộng
sản tràn vào ' giải phóng'; Ba đi tù, Má bị sa
thải. Ba trốn học tập về, đúng lúc Má đặt
được chỗ vượt biên chính thức, tưởng vĩnh
viễn thoát khỏi cái thế giới điêu ngoa, hận
thù, gian manh, th́ tầu do tỉnh ủy Đ ồng Nai đóng
bị vỡ, Ba Má chết đuối. Từ đó, cứ thấy
bóng dáng hạnh phúc là tôi giật ḿnh. Lần này,
với Quỳnh Hương, tôi lại lăn xả vào, không phải
như con thiêu thân nhào vào lửa nhan sắc, mà như
m uối gặp biển mặn. Nàng là hiện thân của
tôi -phần nước mắt, và cả gia đ́nh, dân tộc
tôi, phần ước mơ và bất hạnh. Tôi đón nhận
hết. Một lần, trong Trích Tiên.
Tôi thu xếp cho Quỳnh Hương sang đúng dịp tôi và
Thu An nghỉ phép mùa đông. Và để tránh mọi dị
nghị, tôi tŕnh bày nội vụ với ông thiếu tá,
và nhờ ông tŕnh ông đại tá luôn. Ông dễ
thương tặng Q uỳnh Hương cái vé máy bay. Thu An
bày đặt mang hoa ra phi trường Fornebu đón khách.
Vừa giáp mặt Quỳnh Hương, nó đă reo ầm lên:
- Eo ơi! Chị Quỳnh Hương đẹp dễ sợ.
Quỳnh Hương bật cười v́ những từ ngữ kỳ cục
của con bé, cảm động nhận hoa. Tôi giới thiệu
với khách:
ĐDây là đứa em gái thua tôi tới sáu tuổi,
nhưng từ ngày chúng tôi mồ côi, nó nhảy tót lên
ngôi chị hai, 'kềm kẹp' tôi từ miếng cơm tới
manh áo.
Thu An cong cớn:
- Từ nay em không thèm kềm kẹp nữa, em sắp bàn
giao 'chủ quyền Trường Sá cho người khác.
Quỳnh Hương chỉ biết đỏ mặt. Tôi huưch Thu An
một cái làm nó chạy giạt sang bên kia, núp bóng
Quỳnh Hương.
- Ê ê! Từ nay có chị Quỳnh Hương che chở, anh
Hai không được ăn hiếp em nữa.
Thu An vừa lái xe vừa giới thiệu thành phố cho
khách. Chị em nói chuyện líu lo. Tôi ngồi băng
sau, nhắm mắt nghe giọng Hà Nội và giọng Sài G̣n
quấn quít. Quỳnh Hương như thơ trẻ lại. Tôi
ngả người tận hưởng hạnh phúc của một gia
đ́nh, lần đầu tiên sau 15 năm cô độc, lạc
lơng nơi xứ người.
Đêm giao thừa, cúng vái, ăn cơm xong, Quỳnh Hương
dọn trà mứt, Thu An bưng ra một cái bánh bông bơ,
thắp 30 ngọn nến. Quỳnh Hương trầm trồ:
- Người Việt tại Na-uy có tục lệ riêng để
đón xuân? Đẹp quá!
Thu An trả lời:
- Không phải đâu, chị. Năm nào chúng em cũng ăn
Tết, đồng thời mừng ngày sanh anh Hai. Nhưng
năm nay đặc biệt hơn, v́ năm nay anh Hai 'tam
thập nhi lập'.
Quỳnh Hương hiểu ngay:
- Thế tức là Anh sinh năm 1968?
Tôi nói:
- Đúng, năm Mậu Thân.
Thu An hớt:
- V́ thế Ba Má mới đặt tên ảnh là Thân. Ba Má
nói 'Thân' đây có hai nghĩa là 'yêu mến', 'thân
thiện' chứ không phải 'con khỉ'. Nhưng em thấy
ảnh 'mậu thân' với em lắm. Từ nay ảnh 'mậu
thân' là ảnh chết.
Quỳnh Hương cười ngặt nghẹo. Chưa bao giờ
nàng cười nhiều như vậy. Tôi nói:
- Năm đó con khỉ con này chưa sinh ra, sao bây giờ
khoọc khẹc dữ vậy?
- Chính anh Hai nghe lóm Ba Má kể rồi khoe với em
hết chứ bộ. Cũng như Anh, năm Mậu Thân đâu
có biết ǵ về chuyện Ông Bà Nội, bây giờ
cũng kể vanh vách.
- Chuyện ǵ vậy?
Quỳnh Hương hỏi. Tôi chần chờ. Thu An lần
lượt kể về những thảm cảnh gia đ́nh. Thảm
cảnh nào nó không trực tiếp trải qua, nó kể
lể rành mạch như chuyện cổ tích; đến thảm
cảnh Ba bị công an và o nhà c̣ng tay Ba lần thứ
hai, cảnh đắm tầu th́ nó kể lộn xộn như cơn
ác mộng. Cuối cùng tôi kết luận một câu mà
trong những dịp thiêng liêng thường nói với em
gái, như bổn phận nhắc lại một gia q ui đơn
giản, Quỳnh Hương là người dưng đầu tiên nghe:
- Ba Má chỉ dạy chúng tôi một điều: ḷng trắc
ẩn.
Một làn khói hương từ trên bàn thờ bay là đà
xuống đầu Quỳnh Hương. Nàng lên tiếng:
- Hai Bác thật là nhân hậu, từ những khủng
khiếp của năm Mậu Thân và bao năm sau đó, chỉ
rút ra chữ 'Thân' đặt tên cho con trai và hai chữ
'Trắc ẩn' khắc trong ḷng hai con.
Không muốn hai người con gái thấy ngấn nước
trong mắt tôi, tôi bèn đứng lên thắp thêm nhang
trên bàn thờ ông bà. Nghĩ tới 'Trích Tiên' và
mấy chục triệu người đáng thương xót ở ngàn
dậm xa, t ôi khấn thầm:
'Lạy Trời Phật! Hai chữ trắc ẩn Ba Má khắc
trong ḷng chúng con, cũng là lẽ sống bàng bạc
trong ḷng Trời Đất. Xin Trời Đất nhỏ xuống
ḷng mọi người ở bên kia một giọt trắc ẩn.
Riêng t́nh yêu của con dành cho Quỳnh Hương, đă
khởi đầu do ḷng trắc ẩn, nhưng bây giờ kết
thúc là t́nh yêu. Xin Trời Phật, Ba Má chứng
kiến và chúc phúc cho chúng con'.
Im lặng một lúc, Thu An hỏi:
- Anh Hai vừa ăn mảnh, lén xin Ba Má thêm cái ǵ,
phải không?
Tôi nửa đùa nửa thật:
- Anh không xin xỏ ǵ cả, chỉ hỏi ư kiến thôi.
Ba tháng nữa anh Hai hết thời hạn quân dịch, và
có quyền bảo lănh một người ngoại quốc sang
Na-uy. Anh hỏi Ba Má muốn con dâu là một người
trần hay tie ^n.
Quỳnh Hương mắc cỡ gục mặt xuống, trong khi Thu
An nhảy lại ôm vai nàng, reo:
- Em thay mặt Ba Má trả lời: Tiên. Trích Tiên!
Nhưng c̣n Quỳnh Hương, nàng có ưng thuận vào
trong cái mà tôi cho là 'thiên đường' của chúng
tôi không? Một con người suốt đời bị số
phận đẩy đưa và người khác định đoạt, lần
này quyết đị nh phải thuộc quyền nàng. V́
thế lúc bạn đọc tới gịng này, tôi vẫn đang
ở trong giây phút thiên thu chờ đợi nàng trả
lời.