Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

 

Hồ Xuân Hương Thi Tập

 

1. Quả Mít

Thân em như quả mít trên cây

Da nó xù x́, múi nó dầy

Quân tử có thương th́ đóng cọc,

Xin đừng mân mó, nhựa ra taỵ

 

2. Ốc Nhồi

Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,

Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.

Quân tử có thương th́ bóc yếm,

Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.

 

3. Con Cua

Em có mai xanh, có yếm vàng,

Ba quân khiêng kiệu, kiệu nghêng ngang.

Xin theo ông Khổng về Đông Lỗ,

Học thói Bàn Canh nấu chín Thang

 

4. Bánh Trôi Nước

Thân em vừa trắng, lại vừa tṛn,

Bảy nổi ba ch́m với nước non.

Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn,

Mà em vẫn giữ tấm ḷng son.

 

 

5. Mời ăn Trầu

Quả cau, nho nhỏ, miếng trầu ôi,

Này của Xuân Hương đă quệt rồi.

Có phải duyên nhau th́ thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

 

6. Đền Thái Thú

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,

Ḱa đền Thái Thú đứng cheo leo.

Ví đây đổi phận làm trai được,

Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.

 

7. Tức Cảnh Tề Sở

Đằng quốc tôi nay vốn nhỏ nhen,

Hai bên Tề Sở giữa mà len,

Ngảnh mặt lại Tề e Sở giận ,

Quay đầu về Sở sợ Tề ghen.

 

8. Đồng Tiền Hoển

Cũng ḷ cũng bể, cũng cùng than,

Mở mặt vuông tṛn với thế gian.

Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,

Đủ đồng ắt cũng đóng nên quan.

 

9. Dỗ Bạn Khóc Chồng

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng.

Nín đi kẻo thẹn với non sông.

Ai về nhắn nhủ đàn em nhé.

Xấu máu th́ khem miếng đỉnh chung.

 

10. Sư Bị Ong Châm

Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,

Đi đâu chẳng đội để ong châm.

Đầu sư há phải ǵ bà cốt,

Bá ngọ con ong bé cái lầm.

 

11. Sư Bị Làng Đuổi

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,

Vị ǵ một chút tẻo tèo teo.

Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,

Trái gió cho nên phải lộn lèo.

 

12. Bọn Đồ Dốt

Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,

Cũng đ̣i học nói, nói không nên.

Ai về nhắn bảo phường ḷi tói,

Muốn sống, đem vôi quét trả đền

 

13. Cảnh Thu

Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,

Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,

Xanh ôm cổ thụ tṛn xoe tán,

Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.

Bầu dốc giang sơn say chấp rượu.

Túi lưng phong nguyệt nặng v́ thơ.

Ơ hay, cánh cũng ưa người nhỉ,

Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.

 

14. Bà Lang Khóc Chồng

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc ǵ ?

Thương chồng nên khóc tỉ t́ ti.

Ngọt bùi, thiếp nhớ mùi cam thảo,

Cay đắng, chàng ơi, vị quế chi.

Thạch nhũ, trần b́, sao để lại,

Quy thân, liên nhục, tẩm mang đi.

Dao cầu, thiếp biết trao ai nhỉ ?

Sinh kỳ, chàng ơi, tử tắc quy.

 

15. Đánh Đu

Tám cột khen ai khéo khéo trồng,

Người th́ lên đánh, kẻ ngồi trông.

Trai đu gối hạc khom khom cật,

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa ḷng.

Bốn mảnh quần hồng bay phất phới.

Hai hàng chân ngọc duỗi song song.

Chơi xuân ai biết xuân chăng tá!

Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không.

 

16. Tát Nước

Đang cơn nắng cực chửa mưa tè,

Rủ chị em ra tát nước khe.

Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm,

Lênh đênh một ruộng bốn bờ be.

X́ x̣m đáy nước ḿnh nghiêng ngửa,

Nhấp nhỏm bên bờ đít vắt ve.

Mải miết làm ăn quên cả mệt,

Dang bang một lúc đă đầy phè.

 

17. Hỏi Cô Hàng Sách

Cô hàng lấy sách cắp ra đây!

Xem thử truyện nào thú lại say.

Nữ tú có bao xin xếp cả,

Phương hoa phỏng liệu có c̣n hay ...?

Tuyển phu mặc ư t́m cho kỹ,

Chinh phụ thế nào bán lấy may.

Kỳ ngộ bích câu xin tiện hỏi,

Gía tiền cả đó tính sao vay.

 

18. Hỏi Trăng

Trải mấy thu nay vẫn hăy c̣n,

Cớ sao khi khuyết lại khi tṛn.

Hỏi con bạch thố đà bao tuổi,

Hở chị Hằng Nga đă mấy con?

Đêm tối cớ chi soi gác tía?

Ngày xanh c̣n thẹn với vừng son.

Năm canh lơ lửng chờ ai đó?

Hay có t́nh riêng với nước non?

 

19. Đền Trấn Quốc

Ngoài cửa hành cung cỏ dăi dầu,

Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau!

Một ṭa sen lạt hơi hương ngự,

Năm thức mây phong điểm áo chầu.

Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộn.

Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.

Người xưa, cảnh cũ đâu đâu tá?

Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.

 

20. Giễu Quan Hậu

T́nh cảnh ấy, nước non này,

Dẫu không Bồng Đảo cũng tiên đây.

Hoành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn,

Thúy lĩnh đen trùm một thức mây.

Lấp ló đầu non vừng nguyệt chếch,

Phất phơ sườn núi lá thu bay.

Hỡi người quân tử đi đâu đó?

Đến cảnh sao mà đứng lượm tay.

 

21. Chùa Quán Sứ

Quán sứ sao mà cảnh vắng teo,

Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?

Chày ḱnh tiểu để suông không đấm,

Tràng hạt văi lần đếm lại đeo.

Sáng banh không kẻ khua tang mít,

Trưa trật nào người móc kẽ rêu.

Cha kiếp đường tu sao lắt léo,

Cảnh buồn thêm ngán nợ t́nh đeo.

 

22. Hang Cắc Cớ

Trời đất sinh ra đá một cḥm,

Nứt làm hai mảnh hỏm ḥm hom.

Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,

Luồng gió thông reo vỗ phập pḥm.

Giọt nước hữu t́nh rơi lơm bơm,

Con đường vô ngạn tối om om.

Khen ai đẽo đá, tài xuyên tạc,

Khéo hớ hênh ra lắm kẻ ḍm.

 

23. Chùa Hương

Bầy đặt ḱa ai khéo khéo pḥm,

Nứt ra một lỗ hỏm ḥm hom.

Người quen cơi Phật chen chân xọc,

Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt ḍm.

Giọt nước hữu t́nh rơi thánh thót,

Con thuyền vô trạo cúi lom khom.

Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,

Rơ khéo trời già đến dở dom.

 

24. Hang Thanh Hóa

Khen thay con tạo khéo khôn phàm,

Một đố dương ra biết mấy ngoàm.

Lườn đá cỏ leo, rờ rậm rạp.

Lách khe nước rỉ, mó lam nham.

Một sư đầu trọc ngồi khua mơ,

Hai tiể lưng tṛn đứng giữ am.

Đến mới biết rằng hang Thanh Hóa,

Chồn nhân, mỏi gối, hăy c̣n ham.

 

25. Chợ Trời

Khen thay con Tạokhéo trêu ngươi.

Bày đặt ra nên cảnh chợ Trời!

Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng,

Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.

Bầy hàng hoa quả tư mùa sẵn,

Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.

Bán lợi, buôn danh nào những kẻ,

Chẳng nên mặc cả một đôi lời.

 

26, Đài Khán Xuân

Êm ái, chiều xuân tới khán đài,

Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai.

Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng,

Một vũng tang thương nước lộn trời.

Bể ái ngh́n trùng khôn tát cạn,

Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi.

Nào nào cực lạc là đâu tá?

Cực lạc là đây, chín rơ mười.

 

 

 

 

27. Chùa Xưa

Thày tớ thung dung dạo cảnh chùa,

Thơ th́ lưng túi, rượu lưng hồ.

Cá khe lắng kệ, mang nghi ngóp,

Chim núi nghe kinh, cổ gật gù.

Then cửa từ bi chen chật cánh,

Nén hương tế độ cắm đầy lô.

Nam mô khẽ hỏi nhà sư tí,

Phúc đức như ông được mấy bồ?

 

28. Quán Nước Bên Đường

Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo,

Đường đi thiên thẹo, quán cheo leo.

Lợp lều, mái cỏ tranh xơ xác,

Xỏ kẽ, kèo tre đốt khẳng kheo.

Ba trạc cây xanh h́nh uốn éo,

Một ḍng nước biếc, cỏ leo teo.

Thú vui quên cả niềm lo cũ,

Ḱa cái diều ai thả lộn lèo.

 

29. Qua Kẽm Trống

Hai bên th́ núi, giữa th́ sông,

Có phải đây là kẽm Trống không?

Gió đập cành cây khua lắc cắc,

Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.

trong hang đá hơi c̣n hẹp,

Ra khỏi đầu non đă rộng thùng.

Qua cửa ḿnh ơi, nên ngắm lại,

Nào ai có biết nỗi bưng bồng.

 

30. Đèo Ba Dội

Một đèo, một đèo, lại một đèo,

Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.

Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,

Ḥn đá xanh ŕ lún phún rêu.

Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,

Đầm đià lá liễu giọt sương gieo.

Hiền nhân, quân tử ai là chẳng ...

Mỏi gối, chồn chân vẫn muốn trèo.

 

31. Giếng Nước

Ngơ sâu thăm thẳm tới nhà ông,

Giếng ấy thanh tân, giếng lạ lùng.

Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,

Nuớc trong leo lẻo một ḍng thông!

Cỏ gà lún phún leo quanh mép,

Cá giếc le te lách giữa ḍng.

Giếng ấy thanh tân ai đă biết?

Đố ai dám thả nạ rồng rồng

 

32. Nhà Sư

Chẳng phải là Ngô, chẳng phải ta,

Đầu th́ trọc lốc, áo không tà.

Oản dâng trước mặt, năm ba phẩm,

Văi mọp sau lưng, bảy tám bà.

Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ,

Giọng h́, giọng hí, giọng hi ha.

Tu lâu có lẽ lên sư cụ,

Ngất nghểu ṭa sen nọ đó mà!

 

33. Quan Thị

Mười hai bà mụ ghét chi nhau?

Đem cái xuân t́nh vứt bỏ đâu?

Rúc rích thây cha con chuột lắt,

Vo ve mặc kệ cái ong bầu.

Đố ai biết được vông hay chóc,

C̣n kẻ nào hay cuống với đầu.

Thôi thế th́ thôi, thôi cũng được,

Ngh́n năm khỏi bị tiếng nương dâu.

 

34. Thiếu Nữ Ngủ Ngày

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,

Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.

Lược trúc chải cài trên mái tóc,

Yếm đào trễ xuống dưới nương long.

Đôi g̣ Bồng đảo sương c̣n ngậm,

Một lạch Đào nguyên nước chửa thông.

Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,

Đi th́ cũng dở, ở không xong.

 

35. Cảnh Làm Lẽ

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!

Năm th́ mười họa, nên chăng chớ,

Một tháng đôi lần, có cũng không ...

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,

Cầm bằng làm mướn, mướn không công.

Thân này ví biết dường này nhỉ,

Thà trước thôi đành ở vậy xong.

 

36. Thương

Há dám thương đâu kẻ có chồng,

Thương v́ một nỗi hăy c̣n không.

Thương con cuốc rũ kêu mùa Hạ,

Thương cái bèo non giạt bể Đông.

Thương cha mẹ nhện vương tơ lưới,

Thương vợ chồng Ngâu cách mặt sông.

Ấy thương quân tử thương là thế,

Há dám thương đâu kẻ có chồng.

 

37. Duyên Kỳ Ngộ

Ngh́n dặm có duyên sự cũng thành,

Xin đừng lo lắng hết xuân xanh.

Tấc gang tay họa thơ không dứt,

Gần gụi cung dương lá vẫn lành.

Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện,

Trống mang dùi cắp đă phanh phanh.

Tuy không thả lá trôi ḍng ngự,

Chim tới vườn đào thế mới xinh.

 

38. Chửa Hoang

Cả nể cho nên hóa dở dang,

Nỗi niềm có thấy hỡi chăng chàng?

Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,

Phận liễu sao đành nẩy nét ngang

Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?

Mảnh t́nh một khối thiếp xin mang.

Quản bao miệng thế lời chênh lệch,

Không có nhưng mà có mới ngoan.

 

39. Ǵa Kén Kẹn Hom

Bụng làm dạ chịu trách chi ai,

Già kén kẹn hom ví chẳng sai.

Tiếc đĩa hồng ngâm cho chuột vọc,

Thừa mâm bánh ngọt để ngâu vầy.

Miệng khôn trôn dại đừng than phận,

Bụng ỏng lưng eo chớ trách trời!

Đừng đứng núi này trông núi nọ,

Đói ḷng nên mới phải ăn khoai.

 

40. Dệt Vải

Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,

Con c̣ mấp máy suốt đêm thâu.

Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,

Một suốt đâm ngang thích thích mau.

Rộng, hẹp, nhỏ, to, vừa vặn cả.

Ngắn, dài, khuôn khổ cũng như nhau.

Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ,

Chờ đến ba thu mới dăi mầu.

 

41. Tranh Hai Tố Nữ

Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô ḿnh?

Chị cũng xinh mà em cũng xinh.

Đôi lứa như in tờ giấy trắng,

Ngh́n năm c̣n măi cái xuân xanh.

Phiếu mai chi dám t́nh trăng gió,

Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh.

C̣n thú vui kia sao chẳng thấy,

Trách ông thợ vẽ khéo vô t́nh!

 

42. Cái Quạt Giấy (Bài 1)

 

Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa,

Duyên em dính dáng tự ngàn xưa.

Vành ra ba góc da c̣n thiếu,

Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.

Mát mặt anh hùng khi tắt gió,

Che đầu quân tử lúc sa mưa.

Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,

Ph́ phạch trong ḷng đă sướng chưa ?

 

43. Cái Quạt Giấy (Bài 2)

 

Mười bảy hay là mười tám đây?

Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.

Mỏng dầy chừng ấy chành ba góc,

Rộng hẹp dường nào cắm một cây.

Càng nóng bao nhiêu càng muốn mát,

Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.

Hồng hồng má phấn duyên v́ cậy,

Chúa dấu vua yêu một cái này.

 

44. Tự T́nh (Bài 1)

 

Canh khuya văng vẳng trống canh dồn.

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,

Vừng trăng bóng xế, khuyết chưa tṛn.

Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy ḥn.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh t́nh san sẻ tí con con.

 

45. Tự T́nh (Bài 2)

 

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

Oán hận trông ra khắp mọi cḥm.

Mơ thảm không thua mà cũng cốc,

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?

Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,

Sau giận v́ duyên để mơm ṃm.

Tài tử , văn nhân ai đó tá?

Thân này đâu đă chịu già tom.

 

46. Tự T́nh (Bài 3)

 

Chiếc bánh buồn v́ phận nổi nênh,

Giữa ḍng ngao ngán nỗi lêng đênh.

Lưng khoang t́nh nghĩa dường lai láng,

Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.

Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,

Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.

Ấy ai thăm ván cam ḷng vậy,

Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.

 

47. Đánh Cờ

Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,

Đốt đồn lên đánh cuộc cờ người.

Hẹn rằng đấu trí mà chơi,

Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.

Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,

Để đôi ta quyết liệt một phen.

Quân thiếp trắng, quân chàng đen,

Hai quân ấy chơi nhau đà đă lửa.

Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa,

Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.

Hai xe hà, chàng gác hai bên,

Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.

Chàng lừa thiếp đương khi bất ư,

Đem tốt đầu dú dí vô cung,

Thiếp đang mắc nước xe lồng,

Nước pháo đă nổ đùng ra chiếu.

Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu

Thua th́ thua quyết níu lấy con.

Khi vui nước nước non non,

Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.