|
Hồ Xuân Hương Thi Tập 1. Quả Mít
Thân em như quả mít trên cây Da nó xù x́, múi nó dầy Quân tử có thương th́ đóng cọc, Xin đừng mân mó, nhựa ra taỵ 2. Ốc Nhồi Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi, Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi. Quân tử có thương th́ bóc yếm, Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi. 3. Con Cua
Em có mai xanh, có yếm vàng, Ba quân khiêng kiệu, kiệu nghêng ngang. Xin theo ông Khổng về Đông Lỗ, Học thói Bàn Canh nấu chín Thang 4. Bánh Trôi
Nước
Thân em vừa trắng, lại vừa tṛn, Bảy nổi ba ch́m với nước non. Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn, Mà em vẫn giữ
tấm ḷng son. 5. Mời
ăn Trầu
Quả cau, nho nhỏ,
miếng trầu ôi, Này của Xuân Hương đă quệt rồi. Có phải duyên nhau th́ thắm lại Đừng xanh như lá, bạc như vôi. 6. Đền
Thái Thú
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo, Ḱa đền Thái Thú đứng cheo leo. Ví đây đổi phận làm trai được, Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu. 7. Tức
Cảnh Tề Sở
Đằng quốc tôi nay vốn nhỏ nhen, Hai bên Tề Sở giữa mà len, Ngảnh mặt lại Tề e Sở giận , Quay đầu về Sở sợ Tề ghen. 8. Đồng
Tiền Hoển
Cũng ḷ cũng bể, cũng cùng than, Mở mặt vuông tṛn với thế gian. Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn, Đủ đồng ắt cũng đóng nên quan. 9. Dỗ
Bạn Khóc Chồng
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc
chồng. Nín đi kẻo thẹn với non
sông. Ai về nhắn nhủ đàn em nhé. Xấu máu th́ khem miếng
đỉnh chung. 10. Sư Bị Ong Châm
Nào nón tu lờ, nào mũ thâm, Đi đâu chẳng đội
để ong châm. Đầu sư há phải ǵ bà
cốt, Bá ngọ con ong bé cái lầm. 11. Sư
Bị Làng Đuổi
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo, Vị ǵ một chút tẻo tèo teo. Thuyền từ cũng muốn về
Tây Trúc, Trái gió cho nên phải lộn lèo. 12. Bọn
Đồ Dốt
Dắt díu nhau lên đến cửa
chiền, Cũng đ̣i học nói, nói không
nên. Ai về nhắn bảo phường
ḷi tói, Muốn sống, đem vôi quét trả
đền 13. Cảnh Thu
Thánh thót tầu tiêu mấy hạt
mưa, Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ, Xanh ôm cổ thụ tṛn xoe tán, Trắng xóa tràng giang phẳng lặng
tờ. Bầu dốc giang sơn say chấp
rượu. Túi lưng phong nguyệt nặng v́
thơ. Ơ hay, cánh cũng ưa người
nhỉ, Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn
ngơ. 14. Bà Lang Khóc
Chồng
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc
ǵ ? Thương chồng nên khóc tỉ
t́ ti. Ngọt bùi, thiếp nhớ mùi cam
thảo, Cay đắng, chàng ơi, vị
quế chi. Thạch nhũ, trần b́, sao
để lại, Quy thân, liên nhục, tẩm mang đi. Dao cầu, thiếp biết trao ai
nhỉ ? Sinh kỳ, chàng ơi, tử tắc
quy. 15. Đánh
Đu
Tám cột khen ai khéo khéo trồng, Người th́ lên đánh, kẻ
ngồi trông. Trai đu gối hạc khom khom
cật, Gái uốn lưng ong ngửa ngửa
ḷng. Bốn mảnh quần hồng bay
phất phới. Hai hàng chân ngọc duỗi song song. Chơi xuân ai biết xuân chăng tá! Cột nhổ đi rồi, lỗ
bỏ không. 16. Tát
Nước
Đang cơn nắng cực chửa
mưa tè, Rủ chị em ra tát nước khe. Lẽo đẽo chiếc gầu ba
góc chụm, Lênh đênh một ruộng bốn
bờ be. X́ x̣m đáy nước ḿnh
nghiêng ngửa, Nhấp nhỏm bên bờ đít
vắt ve. Mải miết làm ăn quên cả
mệt, Dang bang một lúc đă đầy
phè. 17. Hỏi Cô
Hàng Sách
Cô hàng lấy sách cắp ra đây! Xem thử truyện nào thú lại say. Nữ tú có bao xin xếp cả, Phương hoa phỏng liệu có
c̣n hay ...? Tuyển phu mặc ư t́m cho
kỹ, Chinh phụ thế nào bán lấy may. Kỳ ngộ bích câu xin tiện
hỏi, Gía tiền cả đó tính sao vay. 18. Hỏi
Trăng
Trải mấy thu nay vẫn hăy
c̣n, Cớ sao khi khuyết lại khi
tṛn. Hỏi con bạch thố đà bao
tuổi, Hở chị Hằng Nga đă
mấy con? Đêm tối cớ chi soi gác tía? Ngày xanh c̣n thẹn với vừng
son. Năm canh lơ lửng chờ ai
đó? Hay có t́nh riêng với nước non? 19. Đền
Trấn Quốc
Ngoài cửa hành cung cỏ dăi
dầu, Chạnh niềm cố quốc
nghĩ mà đau! Một ṭa sen lạt hơi
hương ngự, Năm thức mây phong điểm áo
chầu. Sóng lớp phế hưng coi vẫn
rộn. Chuông hồi kim cổ lắng càng mau. Người xưa, cảnh cũ
đâu đâu tá? Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc
đầu. 20. Giễu
Quan Hậu
T́nh cảnh ấy, nước non
này, Dẫu không Bồng Đảo cũng
tiên đây. Hoành Sơn mực điểm đôi
hàng nhạn, Thúy lĩnh đen trùm một thức
mây. Lấp ló đầu non vừng
nguyệt chếch, Phất phơ sườn núi lá thu bay. Hỡi người quân tử đi
đâu đó? Đến cảnh sao mà đứng
lượm tay. 21. Chùa Quán
Sứ
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo, Hỏi thăm sư cụ đáo
nơi neo? Chày ḱnh tiểu để suông không
đấm, Tràng hạt văi lần đếm
lại đeo. Sáng banh không kẻ khua tang mít, Trưa trật nào người móc
kẽ rêu. Cha kiếp đường tu sao
lắt léo, Cảnh buồn thêm ngán nợ t́nh
đeo. 22.
Hang Cắc Cớ
Trời đất sinh ra đá một
cḥm, Nứt làm hai mảnh hỏm ḥm
hom. Kẽ hầm rêu mốc trơ toen
hoẻn, Luồng gió thông reo vỗ phập
pḥm. Giọt nước hữu t́nh
rơi lơm bơm, Con đường vô ngạn tối
om om. Khen ai đẽo đá, tài xuyên
tạc, Khéo hớ hênh ra lắm kẻ ḍm. 23. Chùa
Hương
Bầy đặt ḱa ai khéo khéo
pḥm, Nứt ra một lỗ hỏm ḥm
hom. Người quen cơi Phật chen chân xọc, Kẻ lạ bầu tiên mỏi
mắt ḍm. Giọt nước hữu t́nh
rơi thánh thót, Con thuyền vô trạo cúi lom khom. Lâm tuyền quyến cả phồn hoa
lại, Rơ khéo trời già đến dở
dom. 24.
Hang Thanh Hóa
Khen thay con tạo khéo khôn phàm, Một đố dương ra
biết mấy ngoàm. Lườn đá cỏ leo, rờ
rậm rạp. Lách khe nước rỉ, mó lam nham. Một sư đầu trọc
ngồi khua mơ, Hai tiể lưng tṛn đứng
giữ am. Đến mới biết rằng hang
Thanh Hóa, Chồn nhân, mỏi gối, hăy
c̣n ham. 25.
Chợ
Trời
Khen thay con Tạokhéo trêu ngươi. Bày đặt ra nên cảnh chợ
Trời! Buổi sớm gió đưa, trưa
nắng đứng, Ban chiều mây họp, tối trăng
chơi. Bầy hàng hoa quả tư mùa sẵn, Mở phố giang sơn bốn
mặt ngồi. Bán lợi, buôn danh nào những kẻ, Chẳng nên mặc cả một
đôi lời. 26, Đài Khán
Xuân
Êm ái, chiều xuân tới khán đài, Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai. Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng, Một vũng tang thương
nước lộn trời. Bể ái ngh́n trùng khôn tát cạn, Nguồn ân muôn trượng dễ
khơi vơi. Nào nào cực lạc là đâu tá? Cực lạc là đây, chín rơ mười. |
27. Chùa Xưa
Thày tớ thung dung dạo cảnh chùa, Thơ th́ lưng túi, rượu
lưng hồ. Cá khe lắng kệ, mang nghi ngóp, Chim núi nghe kinh, cổ gật gù. Then cửa từ bi chen chật cánh, Nén hương tế độ
cắm đầy lô. Nam mô khẽ hỏi nhà sư tí, Phúc đức như ông được
mấy bồ?
28. Quán
Nước Bên Đường
Đứng tréo trông theo cảnh
hắt heo, Đường đi thiên thẹo,
quán cheo leo. Lợp lều, mái cỏ tranh xơ
xác, Xỏ kẽ, kèo tre đốt
khẳng kheo. Ba trạc cây xanh h́nh uốn éo, Một ḍng nước biếc,
cỏ leo teo. Thú vui quên cả niềm lo cũ, Ḱa cái diều ai thả lộn lèo. 29. Qua Kẽm
Trống
Hai bên th́ núi, giữa th́ sông, Có phải đây là kẽm Trống
không? Gió đập cành cây khua lắc
cắc, Sóng dồn mặt nước vỗ
long bong. trong hang
đá hơi c̣n hẹp, Ra khỏi đầu non đă
rộng thùng. Qua cửa ḿnh ơi, nên ngắm
lại, Nào ai có biết nỗi bưng
bồng. 30. Đèo Ba
Dội
Một đèo, một đèo, lại
một đèo, Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo. Cửa son đỏ loét tùm hum nóc, Ḥn đá xanh ŕ lún phún rêu. Lắt lẻo cành thông cơn gió
thốc, Đầm đià lá liễu giọt
sương gieo. Hiền nhân, quân tử ai là chẳng
... Mỏi gối, chồn chân vẫn
muốn trèo. 31. Giếng
Nước
Ngơ sâu thăm thẳm tới nhà
ông, Giếng ấy thanh tân, giếng
lạ lùng. Cầu trắng phau phau đôi ván ghép, Nuớc trong leo lẻo một ḍng
thông! Cỏ gà lún phún leo quanh mép, Cá giếc le te lách giữa ḍng. Giếng ấy thanh tân ai đă
biết? Đố ai dám thả nạ rồng
rồng 32. Nhà Sư
Chẳng phải là Ngô, chẳng
phải ta, Đầu th́ trọc lốc, áo không
tà. Oản dâng trước mặt, năm
ba phẩm, Văi mọp sau lưng, bảy tám bà. Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ, Giọng h́, giọng hí, giọng hi
ha. Tu lâu có lẽ lên sư cụ, Ngất nghểu ṭa sen nọ
đó mà! 33. Quan Thị
Mười hai bà mụ ghét chi nhau? Đem cái xuân t́nh vứt bỏ
đâu? Rúc rích thây cha con chuột lắt, Vo ve mặc kệ cái ong bầu. Đố ai biết được
vông hay chóc, C̣n kẻ nào hay cuống với
đầu. Thôi thế th́ thôi, thôi cũng
được, Ngh́n năm khỏi bị tiếng
nương dâu. 34. Thiếu
Nữ Ngủ Ngày
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông, Thiếu nữ nằm chơi quá
giấc nồng. Lược trúc chải cài trên mái tóc, Yếm đào trễ xuống
dưới nương long. Đôi g̣ Bồng đảo
sương c̣n ngậm, Một lạch Đào nguyên
nước chửa thông. Quân tử dùng dằng đi chẳng
dứt, Đi th́ cũng dở, ở không
xong. 35. Cảnh Làm
Lẽ
Kẻ đắp chăn bông, kẻ
lạnh lùng, Chém cha cái kiếp lấy chồng
chung! Năm th́ mười họa, nên
chăng chớ, Một tháng đôi lần, có cũng
không ... Cố đấm ăn xôi, xôi lại
hỏng, Cầm bằng làm mướn,
mướn không công. Thân này ví biết dường này
nhỉ, Thà trước thôi đành ở
vậy xong. 36. Thương
Há dám thương đâu kẻ có
chồng, Thương v́ một nỗi
hăy c̣n không. Thương con cuốc rũ kêu mùa
Hạ, Thương cái bèo non giạt bể
Đông. Thương cha mẹ nhện
vương tơ lưới, Thương vợ chồng Ngâu cách
mặt sông. Ấy thương quân tử
thương là thế, Há dám
thương đâu kẻ có chồng. 37. Duyên Kỳ
Ngộ
Ngh́n dặm có duyên sự cũng
thành, Xin đừng lo lắng hết xuân
xanh. Tấc gang tay họa thơ không
dứt, Gần gụi cung dương lá
vẫn lành. Tên sẵn bút đề dường
chĩnh chện, Trống mang dùi cắp đă phanh
phanh. Tuy không thả lá trôi ḍng ngự, Chim tới vườn đào thế
mới xinh. 38. Chửa
Hoang
Cả nể cho nên hóa dở dang, Nỗi niềm có thấy hỡi
chăng chàng? Duyên thiên chưa thấy nhô đầu
dọc, Phận liễu sao đành nẩy nét
ngang Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ
chửa? Mảnh t́nh một khối
thiếp xin mang. Quản bao miệng thế lời
chênh lệch, Không có nhưng mà có mới ngoan. 39. Ǵa Kén
Kẹn Hom
Bụng làm dạ chịu trách chi ai, Già kén kẹn hom ví chẳng sai. Tiếc đĩa hồng ngâm cho
chuột vọc, Thừa mâm bánh ngọt để ngâu
vầy. Miệng khôn trôn dại đừng
than phận, Bụng ỏng lưng eo chớ trách
trời! Đừng đứng núi này trông núi
nọ, Đói ḷng nên mới phải ăn
khoai. 40. Dệt
Vải
Thắp ngọn đèn lên thấy
trắng phau, Con c̣ mấp máy suốt đêm thâu. Hai chân đạp xuống năng
năng nhắc, Một suốt đâm ngang thích thích
mau. Rộng, hẹp, nhỏ, to, vừa
vặn cả. Ngắn, dài, khuôn khổ cũng như
nhau. Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ, Chờ đến ba thu mới dăi
mầu. 41. Tranh Hai
Tố Nữ
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô
ḿnh? Chị cũng xinh mà em cũng xinh. Đôi lứa như in tờ giấy
trắng, Ngh́n năm c̣n măi cái xuân xanh. Phiếu mai chi dám t́nh trăng gió, Bồ liễu thôi đành phận
mỏng manh. C̣n thú vui kia sao chẳng thấy, Trách ông thợ vẽ khéo vô t́nh! 42. Cái Quạt Giấy (Bài 1) Một lỗ sâu sâu mấy cũng
vừa, Duyên em dính dáng tự ngàn xưa. Vành ra ba góc da c̣n thiếu, Khép lại đôi bên thịt vẫn
thừa. Mát mặt anh hùng khi tắt gió, Che đầu quân tử lúc sa mưa. Nâng niu ướm hỏi người
trong trướng, Ph́ phạch trong ḷng đă
sướng chưa ? 43. Cái Quạt Giấy (Bài 2) Mười bảy hay là mười
tám đây? Cho ta yêu dấu chẳng rời tay. Mỏng dầy chừng ấy chành ba
góc, Rộng hẹp dường nào cắm
một cây. Càng nóng bao nhiêu càng muốn mát, Yêu đêm chưa phỉ lại yêu
ngày. Hồng hồng má phấn duyên v́
cậy, Chúa dấu vua yêu một cái này. 44. Tự T́nh (Bài 1) Canh khuya văng vẳng trống canh
dồn. Trơ cái hồng nhan với
nước non. Chén rượu hương đưa,
say lại tỉnh, Vừng trăng bóng xế, khuyết
chưa tṛn. Xuyên ngang mặt đất, rêu
từng đám, Đâm toạc chân mây, đá mấy
ḥn. Ngán nỗi xuân đi xuân lại
lại, Mảnh t́nh san sẻ tí con con. 45. Tự T́nh (Bài 2) Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom, Oán hận trông ra khắp mọi
cḥm. Mơ thảm không thua mà cũng
cốc, Chuông sầu chẳng đánh cớ sao
om? Trước nghe những tiếng thêm
rầu rĩ, Sau giận v́ duyên để mơm
ṃm. Tài tử , văn nhân ai đó tá? Thân này đâu đă chịu già tom. 46. Tự T́nh (Bài 3) Chiếc bánh buồn v́ phận
nổi nênh, Giữa ḍng ngao ngán nỗi lêng
đênh. Lưng khoang t́nh nghĩa
dường lai láng, Nửa mạn phong ba luống bập
bềnh. Cầm lái mặc ai lăm đỗ
bến, Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh. Ấy ai thăm ván cam ḷng vậy, Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh. 47. Đánh
Cờ
Chàng với thiếp đêm khuya
trằn trọc, Đốt đồn lên đánh
cuộc cờ người. Hẹn rằng đấu trí mà
chơi, Cấm ngoại thuỷ không ai
được biết. Nào tướng sĩ dàn ra cho hết, Để đôi ta quyết liệt
một phen. Quân thiếp trắng, quân chàng đen, Hai quân ấy chơi nhau đà
đă lửa. Thọat mới vào chàng liền
nhảy ngựa, Thiếp vội vàng vén phứa
tịnh lên. Hai xe hà, chàng gác hai bên, Thiếp thấy bí, thiếp liền
ghểnh sĩ. Chàng lừa thiếp đương
khi bất ư, Đem tốt đầu dú dí vô cung, Thiếp đang mắc nước xe
lồng, Nước pháo đă nổ
đùng ra chiếu. Chàng bảo chịu, thiếp rằng
chẳng chịu Thua th́ thua quyết níu lấy con. Khi vui nước nước non non, Khi buồn lại giở bàn son quân
ngà. |

