40 năm ngày đảo chính chế độ Ngô Đ́nh
Diệm - 1-11-1963 :
Cái nh́n từ Hà Nội
Bùi Tín
I. Ngô Đ́nh Diệm với tư cách nhân
vật lịch sử
Ngô Đ́nh Diệm
xuất hiện trong chế độ chính trị Sài G̣n
giữa lúc Hội nghị Genève về Đông dương
đang diễn ra, khi việc chỉ đạo và chi phí
của cuộc chiến tranh Đông Dương đang
chuyển hẳn từ Paris sang Washington.
Ngô Đ́nh Diệm
được dư luận thế giới cho rằng là
người của Mỹ, do chính giới Mỹ chọn và
bồi dưỡng từ lâu.
Bộ máy tuyên truyền
của Hà Nội và cả phe xă hội chủ nghĩa miêu
tả khác : Ngô Đ́nh Diệm vốn là tay sai của
thực dân Pháp, bỏ quan do kèn cựa với Phạm
Quỳnh (cùng là thượng thư triều đ́nh
Huế), sau đó theo phát xít Nhật, sau đó
được CIA Mỹ tuyển chọn, do ông Hồng y
Mỹ Spellman đào tạo và bồi dưỡng trong thời
gian thế chiến II trên đất Mỹ để
trở thành "tay sai tin cậy và trung thành" của Hoa
Kỳ. Hiện nay người trong nước phần
lớn tin vào những lời tuyên truyền chính thức
rất tùy tiện ấy.
Cùng với thời gian và sự
t́m hiểu những tư liệu lịch sử, tôi
thấy rằng cần phải trả lại lẽ công
bằng cho nhân vật lịch sử này : ngay từ khi c̣n
trẻ Ngô Đ́nh Diệm đă tỏ ra có tư chất
thông minh xuất sắc ; ông vào học trường hậu
bổ rất sớm, làm tri huyện Hải Lăng khi 28
tuổi, làm tuần phủ Phan Thiết (đứng
đầu tỉnh) khi mới 30 tuổi, làm thượng
thư bộ Lại (trên thực tế là đứng
đầu nội các Nam triều) khi mới 32 tuổi
(1933), trong khi trước đó các vị thượng
thư như Nguyễn Hữu Bài, Tôn Thất Hân đều
trên 60, 70 tuổi cả.
Ngô Đ́nh Diệm làm
thượng thư có bốn tháng, đột nhiên treo
ấn từ quan. V́ sao ? Đây vẫn c̣n là điều bí
ẩn. Nhiều người giải thích rằng đó là
do mâu thuẫn với ông Phạm Quỳnh, thượng thư
bộ Học. Năm 1945, tôi được nghe cha tôi (Bùi
Bằng Đoàn, cùng dịp ấy được cử làm
thượng thư bộ Tư pháp) kể lại trong
cuộc nói chuyện với hai ông anh ruột là Bùi Bằng
Phấn và Bùi Bằng Thuận rằng : hồi ấy ông
Diệm có ngỏ ư với vua Bảo Đại và khâm
sứ Trung kỳ (người Pháp) là nước Pháp nên
trao lại cho Nam triều các quyền nội trị ở
Bắc kỳ y như ở Trung kỳ, và giao thêm cho cho các
Hội đồng Dân biểu Trung kỳ và Bắc kỳ
một số thực quyền (v́ thật ra hai cơ quan
này chỉ có chút quyền tư vấn rất h́nh thức,
hiếu hỷ). Theo Ḥa ước Patenôtre 1884 (điều
16), vua Việt Nam trực tiếp giữ mọi quyền
nội trị ở Trung kỳ và Bắc kỳ, nhưng
đến năm 1887 toàn quyền Pháp Paul Doumer thay
đổi cách cai trị ba kỳ với ba chế
độ khác nhau, Nam kỳ là thuộc địa, trực
trị (colonie), Trung kỳ là bảo hộ (protectorat), c̣n
Bắc kỳ th́ tuy mang tên bảo hộ nhưng thực
tế lại không do Nam triều trực tiếp thực
hiện quyền nội trị, mọi quyền thuộc
về viên thống sứ Pháp ! Hai ư kiến của ông
Diệm đều bị Pháp từ chối, ông quyết
định từ chức.
Năm 1975, tôi được ông
Vũ Ngọc Nhạ, cán bộ t́nh báo Bắc Việt Nam
từng làm cố vấn cho ông Ngô Đ́nh Diệm, kể
rằng ông Ngô Đ́nh Diệm có lần cho ông biết: khi
ông xin từ chức thượng thư bộ Lại vào
tháng 7 năm 1933, những người anh em của ông là Ngô
Đ́nh Khôi, Ngô Đ́nh Thục, Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh
Luyện đều can ngăn, nhưng ông Diệm nhất
định giữ cách xử sự của ḿnh : khi
người Pháp tỏ ra cố chấp và không nhích khỏi
lập trường thực dân th́ không thể hợp tác
với họ được !
Cũng theo ông Nhạ
thuật lại theo lời kể của ông Diệm th́ khi
người Nhật làm đảo chính (9-3-1945) gạt
bỏ người Pháp, họ đă t́m ông, nhưng ông lánh
mặt v́ cho rằng thế của Nhật không vững và
họ không thật ḷng trao độc lập cho Việt
Nam. Ông Nhạ c̣n cho tôi biết người Mỹ cũng
từng ngỏ ư yêu cầu tổng thống Diệm
nhượng cho Hoa Kỳ quyền sử dụng Cảng
quân sự Cam Ranh trong 10 hay 20 năm ǵ đó, nhưng ông
Diệm đă từ chối ngay. Ông nói với ông Nhạ :
"Không thể được, lỡ ra sau này có quan
hệ Nam - Bắc th́ ta ăn nói với đồng bào
miền Bắc ra sao về chuyện này !".
Tôi cho rằng ông Diệm
là một nhân vật chính trị đặc sắc, có ḷng
yêu nước sâu sắc, có tính cách cương trực
thanh liêm, nếp sống đạm bạc giản dị. Giờ
đây chúng ta đă có những bằng chứng về
lập trường của ông Ngô Đ́nh Diệm :
chống thực dân Pháp, giành lại quyền nội
trị đầy đủ, không muốn Hoa kỳ can
thiệp sâu, chống lại việc ồ ạt
đưa quân chiến đấu Mỹ và nước ngoài
vào.
Ông đă phải trả
giá bằng cả sinh mạng ḿnh cho lập trường
dân tộc ấy. Ngành tuyên truyền của Hà Nội
thường hay so sánh ông Ngô Đ́nh Diệm với ông
Hồ Chí Minh theo kiểu yêu nên tốt, ghét nên xấu.
Sự thêu dệt cuộc đời Hồ Chí Minh như
một nhà hiền triết đạm bạc, đạo
đức mẫu mực, khắc khổ tu luyện,
tận diệt mọi lạc thú cá nhân trên đời v́
lợi ích của dân tộc đến mức gần
đây họ khuyến dụ giới Phật giáo quốc
doanh phong ông là Bồ Tát Hồ Chí Minh. Trái ngược
với h́nh ảnh Hồ Chí Minh một ḷng v́ dân v́
nước, hy sinh cuộc sống cá nhân để sống
cô độc suốt đời, bây giờ người ta
đă biết (qua những chứng cứ lịch sử)
rằng ông từng cưới vợ ở Hongkong, một
thời gian sống chung với Nguyễn Thị Minh Khai, có
nhiều người t́nh ở những nơi ông sống
qua, có cả con riêng ; thậm chí vợ chính thức cũ
Tăng Tuyết Minh cố công đi t́m kiếm
người chồng đă trở thành chủ tịch
một nước, nhưng ông bỏ mặc… Trong sự so
sánh ấy, ông Hồ Chí Minh tỏ ra không bằng ông Ngô
Đ́nh Diệm.
Về tinh thần dân
tộc, ông Ngô Đ́nh Diệm cũng tỏ ra hơn
hẳn ông Hồ Chí Minh. Ông Diệm không bao giờ ôm
vội một học thuyết xa lạ vào ḷng để
khóc và hét toáng lên: "Chân lư đây rồi !", hoặc
dạy bảo các đồng chí của ḿnh rằng :
"Bác bảo đảm hai vị lănh tụ Staline và Mao
Trạch Đông không bao giờ phạm sai lầm !", hay
là viết cả một cuốn sách dày kư tên Trần
Lực để bảo mọi người phải
học kinh nghiệm những "bước nhảy
vọt" chết người của Mao Trạch Đông
!
Từ khi nhận
chức thủ tướng, rồi tổng thống,
từ tháng 6-1954 đến cuối năm 1960, trong hơn 5
năm, ông Diệm đă đạt khá nhiều thành tích
nổi bật :
- đón tiếp và ổn
định cuộc sống cho khoảng một triệu
đồng bào di cư từ Bắc vào ;
- thực hiện gọn
cuộc trưng cầu dân ư nhằm phế truất
quốc trưởng Bảo Đại, mở ra nền
Đệ nhất Cộng Ḥa ; dẹp bỏ Ngân Hàng
Đông Dương, lập Ngân Hàng Quốc Gia và đồng
tiền quốc gia ;
- dẹp các giáo phái có
vũ trang được một số thực dân
người Pháp tiếp sức ;
- đóng cửa ṣng
bạc Tân Thế Giới của cánh B́nh Xuyên ;
- mở rộng
trường Đại Học Sài G̣n và xây dựng
Đại Học Huế…
Nhưng cũng trong
thời gian chấp chính, ông Ngô Đ́nh Diệm cũng
đă phạm những sai lầm nặng nề :
để cho người trong gia đ́nh tham gia ngày càng sâu
vào việc nước, từ anh ông là giám mục Ngô
Đ́nh Thục, đến em ông là Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh
Cẩn và đặc biệt là cô em dâu ngổ ngáo Trần
Lệ Xuân, tạo nên h́nh ảnh gia đ́nh trị độc
đoán kiểu phong kiến.
Có thể nói sau hơn 5
năm ổn định, có một số thành tích nổi
sau khi kết thúc thời kỳ Bảo Đại -
thuộc Pháp, từ năm 1960, chế độ Ngô Đ́nh
Diệm bước vào thời kỳ khủng hoảng.
Lẽ ra phải tỉnh táo đối phó, sửa chữa
sai lầm, bổ khuyết những thiếu sót th́ chính
quyền Ngô Đ́nh Diệm lại trở nên kiêu
ngạo, tự phụ và chủ quan, độc đoán
hơn.
Một bằng chứng
mà ai cũng thấy được là vào tháng 11-1960, sau khi
dẹp được cuộc đảo chính của
một số sĩ quan dù, đáng lẽ phải xem xét lại
những khiếm khuyết trong cách quản trị xă
hội và những chính sách đối nội và đối
ngoại th́ gia đ́nh Ngô Đ́nh Diệm lại chủ quan,
tự đắc hơn nữa và thế là để
đến giữa năm 1963 nổ bùng ra cuộc khủng
hoảng nghiêm trọng cả đối nội và
đối ngọai, dẫn đến kết liễu bi
đát của chế độ Ngô Đ́nh Diệm.
Trong thời kỳ
khủng hoảng nói trên, Ngô Đ́nh Diệm vẫn một
mực giữ niềm tin ở sứ mệnh thiêng liêng trong
vai tṛ lănh tụ trời sai xuống để cứu dân,
ông sống trong hoang tưởng ḿnh là một vĩ nhân
châu Á, tự cho Việt Nam dưới quyền ông
đang làm mẫu mực về chiến đấu
chống cộng sản vô thần và xây dựng xă hội
mới ở châu Á… Ông phạm thêm sai lầm liên tiếp :
bỏ ngoài tai những khuyên can và yêu cầu từ bỏ
vai tṛ cố vấn của Ngô Đ́nh Nhu, nhất là từ
bỏ sự can thiệp nhố nhăng của cô em dâu Lệ
Xuân, tự cô lập ḿnh, gây thù oán với giới Phật
giáo chiếm đa số dân cư, c̣n nể nang ông anh Ngô
Đ́nh Thục khi ông này được đưa về
làm giám mục địa phận Huế, và tổ chức
quá lố lễ "Ngân khánh 25 năm phong giám mục"
của ông Thục như một quốc lễ, c̣n ra
lệnh cấm cắm cờ Phật giáo, làm nổ ra
cuộc chống đối quy mô rộng và cuộc tự
thiêu của Thích Quảng Đức, làm chấn động
dư luận trong, ngoài nước.
Ngay sau khi cuộc
tổng tuyển cử do Hiệp định Genève
đề xướng cho tháng 7-1956 không diễn ra,
trước chủ trương tố cộng và diệt
cộng của những năm 1957-1959 ở khắp
miền Nam, chính quyền Hà Nội đă gấp rút khôi
phục, xây dựng cơ sở chính trị, bán vũ trang
và vũ trang, ra Nghị quyết 15 (đầu năm
1959) chủ trương bạo lực cách mạng nhằm
giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Một số cuộc "đồng
khởi" ở Bến Tre, B́nh Định, Quảng
Ngăi… nổ ra.
Kịch bản của
cuộc chiến tranh đă được viết.
Sau khi cuộc đảo
chính 1-11-1960 nổ ra ở Sài G̣n và thất bại, Hà
Nội đă nhận ra những triệu chứng suy
yếu và khủng hoảng của chính quyền Ngô
Đ́nh Diệm. Cuối 1960 Mặt Trận Dân Tộc
Giải Phóng, rồi Quân Giải Phóng được thành
lập, một số sĩ quan và quân nhân từ miền Nam
tập kết ra miền Bắc năm 1954 được
tuyển chọn, huấn luyện, đưa về qua
giới tuyến 17, theo từng đơn vị nhóm nhỏ
vũ trang nhẹ 30, 40 người theo đường ṃn
559. Trong hai năm 1961, 1962 sự thâm nhập
được thực hiện từ từ, vững
chắc, quy mô nhỏ, hoạt động chính trị, xây
dựng cơ sở, chiến đấu kiểu du kích,
vũ trang tuyên truyền, cho đến đầu năm
1963 th́ bắt đầu thâm nhập nhiều hơn,
lớn hơn, với quy mô từng đại đội
hoàn chỉnh. Đó là v́ tháng giêng 1963 trận Ấp Bắc
diễn ra, Hà Nội coi đó là một sự kiện tiêu
biểu, có ư nghĩa cả về quân sự và chính trị,
nói lên sự chuyển biến đi lên của t́nh h́nh và
sự sa sút của quân lực Sài G̣n được quân
Mỹ trực tiếp yểm trợ. Trận Ấp
Bắc xảy ra rất xa giới tuyến 17, ở phía Nam
Sài g̣n, sát vùng đồng bằng sông Cửu long, giữa
vùng đông dân, vùng giao thông lớn. Báo Nhân Dân, Quân
Đội Nhân Dân đăng liền hàng chục bài
tường thuật, sơ đồ, nhận
định, thống kê, thành tích, khen thưởng, dư
luận các nước về trận đánh này, làm nổi
bật nhận định : cuộc chiến tranh
đặc biệt của Mỹ ở miền Nam theo công
thức "quân đội Sài G̣n + cố vấn và yểm
trợ của Mỹ" đă thất bại, đây là
thời cơ để đẩy mạnh chiến đấu
buộc đối phương phải chịu thất
bại trong chiến tranh đặc biệt, đồng
thời chủ động chuẩn bị đối phó
nếu đối phương chuyển lên chiến tranh cục
bộ (với sự cấp cứu, tham chiến của
quân chiến đấu Mỹ).
Cuộc đảo chính
lật đổ Ngô Đ́nh Diệm diễn ra trong t́nh h́nh
chính trị và quân sự chung như vậy.
II. Hậu quả của cuộc đảo chính
1-11-1963
Ngay sau khi cuộc
đảo chính xảy ra dẫn đến cái chết của
Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu, Hà Nội triệu
tập ngay cuộc Hội nghị trung ương
đảng lần thứ 9 (khóa III); cuộc họp kéo dài
đến hai tuần lễ, từ 7 đến 20 tháng 12,
chia làm hai phần : "cách mạng miền Nam" và
"nhiệm vụ quốc tế của đảng".
Nghị quyết này rất quan trọng, thường
được gọi tắt là "Nghị quyết
9".
Nghị quyết nhấn
mạnh : cuộc khủng hoảng trầm trọng
của Mỹ và chế độ Sài G̣n qua cuộc
đảo chính "thay ngựa giữa ḍng" chắc chắn
sẽ c̣n trầm trọng hơn nữa ; ấp chiến
lược đă và đang bị phá trên quy mô lớn ;
đấu tranh chính trị ở nông thôn và thành thị
đều mở rộng, sôi nổi ; cần tranh thủ
thời cơ, tập trung lực lượng, chi viện
mạnh mẽ miền Nam, giành cho được thắng
lợi có ư nghĩa quyết định trong mấy năm
tới.
Quân ủy trung
ương cũng họp ngay mấy ngày sau đó
để quyết định những công việc cụ
thể cấp bách : chọn một số trung đoàn
chuẩn bị gấp lên đường vào Quân khu V và Tây
Nguyên ; mở rộng gấp đường vận
chuyển chiến lược 559; đưa gấp vào
chiến trường những vũ khí chống thiết
vận xa M113 và trực thăng, đặc biệt là B40 và
các loại súng máy… Về mặt tổ chức,
tướng Chu Huy Mân chính ủy Quân khu 4 (gồm các
tỉnh từ Thanh Hóa vào đến giới tuyến)
nhận nhiệm vụ tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu
5 (gồm các tỉnh nam Trung bộ và Tây Nguyên ; sau này,
đến 1969 sẽ tách ra Tây Nguyên dưới sự
chỉ huy của tướng Hoàng Minh Thảo) ; quan
trọng hơn cả là việc cử đại
tướng Nguyễn Chí Thanh, ủy viên bộ chính
trị, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị,
đang được biệt phái đặc trách về
củng cố phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, trở
ngay lại quân đội để vào Nam nhận nhiệm
vụ : đại diện bộ chính trị, lănh
đạo và chỉ huy cuộc cách mạng và chiến
đấu toàn miền Nam. Ông Thanh liền lựa chọn
một số cán bộ cấp cao như tướng Lê
Trọng Tấn, tướng Trần Độ làm phụ
tá về quân sự và chính trị, và cử ngay một
đoàn cán bộ đi nghiên cứu toàn diện t́nh h́nh trong
Nam, gồm cán bộ các tổng cục của bộ
Quốc pḥng-Tổng tư lệnh, lên đường ngay
cuối tháng 12-1963. Đoàn có 24 cán bộ chính trị, tham
mưu, kỹ thuật, hậu cần, quân khí, vận
tải, tổ chức, tuyên huấn, dân vận… Tôi được
chỉ định tham gia đoàn, được phân công
phổ biến kỹ nội dung của Nghị quyết
9, nghiên cứu về tinh thần chiến đấu, các
tài liệu giáo dục, tinh thần nhân dân, phong trào
đấu tranh chính trị, việc phá ấp chiến
lược, tác dụng của báo chí, đài phát thanh cũng
như việc tuyển mộ quân nhân tại chỗ cho quân
giải phóng… Để bảo mật, đoàn không
được mang tài liệu loại tối mật,
phải ghi bằng kư hiệu riêng, nhiều đoạn quan
trọng phải viết tắt, theo lối mật mă,
chỉ để riêng ḿnh đọc và hiểu, phải
học gần như thuộc ḷng, nhập tâm nhiều
nội dung…
Về phần
"nghĩa vụ quốc tế của đảng",
Nghị quyết 9 chỉ rơ đặc điểm của
t́nh h́nh thế giới, tính chất thời đại, chiến
lược và sách lược…, Đảng Cộng Sản
Việt Nam luôn bảo vệ sự trong sáng (!) của
chủ nghĩa Mác-Lênin, chống chủ nghĩa xét lại,
chủ nghĩa giáo điều, tăng cường đoàn
kết, chống chia rẽ trong phong trào cộng sản
quốc tế…
Trên thực tế, vào
tháng 12 năm 1963, sự chia rẽ giữa Đảng
Cộng Sản Liên Xô và Đảng Cộng Sản Trung
Quốc lên đến độ cao nhất ; ở Hà Nội,
hai sứ quán Liên Xô và Trung Quốc đua nhau tán phát mỗi
ngày những bản tin và tập tài liệu dày chửi
bới nhau thậm tệ, kết tội nhau là phản
bội, là cơ hội hữu khuynh và cơ hội tả
khuynh, là tự biến ḿnh thành tai sai, đầu hàng
đế quốc hèn hạ nhất. Hai đài phát thanh
tiếng Việt từ Moscova và Bắc Kinh qua hệ
thống loa lớn đua nhau lớn tiếng mạt sát
nhau, ra rả mỗi sáng và mỗi tối. Đảng
Cộng Sản Việt Nam một mực giữ vững
lập trường "trung gian ḥa giải",
"đi trên dây", "ba phải", không ngả
hẳn về bên nào, v́ trước hết là do thái
độ thực dụng, Liên Xô và Trung Quốc đều
là nguồn cung cấp lương thực, thực
phẩm, vũ khí lớn nhỏ, quân trang quân dụng, xe
cộ, thuốc men, hàng tiêu dùng, ngoại tệ, đều
là nơi đào tạo cán bộ chính trị, kinh tế,
giáo dục, văn hóa, ngoại giao, nhân viên và công nhân chuyên
nghiệp cho Việt Nam. Tuy vậy trên thực tế Hà
Nội vẫn tỏ ra nghiêng về phía Trung Quốc, v́
nhiều nguyên nhân : cùng gốc gác xă hội phong kiến, nho
giáo, sản xuất nhỏ ; láng giềng gần; số
lượng và giá trị viện trợ, cho đến lúc
ấy, nhiều hơn ; sức ép cũng mạnh hơn.
Thêm nữa, năm 1962,
sau khi tổng thống Kennedy tuyên bố cam kết bảo
vệ Việt Nam bằng mọi giá, cho phép phi công quân
sự Mỹ tham gia chiến trận ở Việt Nam, cho
quân chiến đấu Mỹ được nổ súng
trước khi giáp trận ở Việt Nam, Hà Nội
đă kư với Bắc Kinh một hiệp định bí
mật giữa hai bộ tổng tham mưu quân sự :
nếu Mỹ dùng không quân, hay dùng hải quân, hay là dùng
đến bộ binh xâm phạm vùng trời, vùng biển
hay lănh thổ miền Bắc xă hội chủ nghĩa th́
lập tức Trung Quốc sẽ tham chiến với
mức độ tương ứng. Trong năm 1963, nguyên
soái Diệp Kiếm Anh, tổng tham mưu trưởng La
Thụy Khanh cùng đoàn cán bộ các quân chủng lục,
không, hải quân sang Hà Nội, vào Quân khu 4 là quân khu giáp
giới tuyến để nghiên cứu địa h́nh, xác
định các phương án chiến đấu và
phối hợp…
Đoàn chúng tôi
vượt qua giới tuyến vào miền Nam Việt Nam.
Chúng tôi vào B́nh Trị Thiên, ghé qua Quảng Nam, Quảng Ngăi,
B́nh Định, lên Kontum, Pleiku, làm việc hai tuần ở
bộ tư lệnh Quân khu 5 đóng ở vùng Lê Xá gần
ngọn ḍng sông Ba, gặp một trận càn của quân
lực Việt Nam Cộng Ḥa đúng vào dịp Tết âm
lịch… Qua trận càn càng nhận ra nhiều thuận
lợi v́ các đơn vị đi càn chỉ lướt
qua theo lệnh trên. Trong khi đó th́ các đơn vị du
kích, bộ đội huyện, tỉnh do miền Bắc
xây dựng đều vô sự, có nhiều thành tích tiêu hao
địch, quân chủ lực miền Bắc đưa
vào được huấn luyện khá tốt, thích ứng
nhanh với t́nh h́nh, B40, súng máy phát huy tốt tác dụng chống
M113 và trực thăng vận…
Tôi biết rơ t́nh h́nh này
là do tự ḿnh xuống vùng Tam quan và huyện Đức phổ,
xuống tận các xă, vào tận huyện lỵ vào ban
đêm, vào cả hai ấp chiến lược
(vượt qua ba sông, ba núi là những tường, rào,
ụ, hào rănh, cầu quanh ấp), họp anh chị em ngay
trong ấp để nắm t́nh h́nh, nhiều bảo an dân
vệ do chính quyền miền Nam lập ra ban đêm
lại là du kích…
Đúng là t́nh h́nh sau
1-11-1963 ngày càng thuận cho phía quân giải phóng. Khi trở
ra, tôi thấy đường vận chuyển
được mở rộng thêm, nhiều con
đường đang được mở thêm nữa
cho vận chuyển cơ giới thay dần xe đạp
thồ.Mỹ ném bom dữ dội nhưng đường
vẫn thông.
Tháng 4, đoàn chúng tôi ra
Hà Nội và báo cáo với Bộ Quốc pḥng và Quân ủy
trung ương. Đích thân đại tướng
Nguyễn Chí Thanh nghe báo cáo và sau đó lên đường.
Ngay sau đó ba trung đoàn bộ binh hoàn chỉnh thuộc
các Sư đoàn 305, 324, 325, hai tiểu đoàn công binh,
năm tiểu đoàn đặc công được
đưa vào miền Nam… Chủ trương tận
dụng thời cơ mới, tăng mạnh chi viện cho
miền Nam được thực hiện khẩn
trương và mang lại hiệu quả tích cực, trong
khi cuộc khủng hoảng chính trị sau 1-11-1963 ở
Sài G̣n ngày càng nặng nề với các ông tướng thay
thế nhau tranh quyền, từ tướng Minh đến
tướng Khánh, rồi các tướng Thiệu, Kỳ…
III. Vài nhận xét về thời kỳ hậu Ngô
Đ́nh Diệm
- T́nh h́nh suốt năm
1964 chứng minh việc lật đổ Ngô Đ́nh
Diệm tạo nên nhiều khó khăn mới cho
chế độ miền Nam, ấp chiến lược
bị phá thêm trên qui mô lớn, quân Sài G̣n bỏ ngũ
nhiều hơn, đến cuối năm trận B́nh Giă
đánh dấu sự sa sút mới của t́nh h́nh quân sự
; các nhân vật thay thế Ngô Đ́nh Diệm đều
thiếu uy tín và khả năng cầm quyền. Các
tướng lĩnh thay Ngô Đ́nh Diệm đều là
sĩ quan do thực dân Pháp đào tạo trong cuộc
chiến tranh Pháp-Việt ; các tướng trẻ và sĩ
quan cao cấp do Mỹ, do phương Tây hay do trong
nước đào tạo chưa kịp tự khẳng
định. Đây là nhược điểm, lỗ
hổng lớn của chế độ Việt Nam Cộng
Ḥa. Các nhà chính trị hiếm hoi và không ai có vượt lên
so với ông Diệm trước đó !
-
Hậu quả của sự sa sút ấy là quân chiến
đấu Mỹ phải vào tham chiến. Từ vài ngàn, lên
vài chục ngàn, rồi vài trăm ngàn, lên đến nửa
triệu, cùng với việc ném bom miền Bắc. Việc
sử dụng quân lính và bom không được cân nhắc,
tính toán kỹ từ đầu nên hiệu quả thấp,
c̣n gây nên tâm lư ỷ lại rất tai hại cho các
đơn vị quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Nếu
biết sử dụng quân Mỹ đúng nơi, đúng
chỗ, đúng cách th́ t́nh h́nh sẽ khác (như tập trung
ở sát giới tuyến và dọc đường 9 trên
đất Lào để chặn xâm nhập ; như
chiếm một khu vực nhỏ ở vùng cán xoong miền
Bắc, sát giới tuyến ; như chiếm bằng
bộ binh một đoạn nhỏ đường 559…;
tốn rất ít quân Mỹ mà hiệu quả cao) (về
sau, khi ném bom bằng b52 đường 559 cũng chỉ
có 0,18% số bom trúng vào mặt đường và gây
tổn thất không đáng kể, theo báo cáo của
tướng Đồng Sỹ Nguyên cho đại
tướng Giáp);
- Bộ quốc pḥng và
bộ tổng tham mưu Hà Nội rất e ngại
đến lo sợ Mỹ cho bộ binh chiếm một
đoạn dù nhỏ của đường 559, sẽ làm
đảo lộn cuộc vận chuyển, trở
ngại lớn cho toàn chiến trường, v́ tổ
chức con đường phức tạp, các đơn
vị vận tải, kho, quân y, thanh niên xung phong, công binh…
không quen chiến đấu ;
- Hồi 1964, Hà Nội
rất lo Mỹ biết sự tráo trở của
Bắckinh rồi đưa bộ binh đánh vào vùng cán
xoong sát giới tuyến, do đó đề ra chủ
định "buộc Mỹ xuống thang trên cả hai
miền, không để chiến tranh trên bộ lan ra
miền Bắc", v́ nếu điều ấy xảy ra,
chiến lược quân sự của Hà Nội trên hai
miền đều phải thay đổi rất bất
lợi ;
- Mỹ thường đánh giá
sai, dự đoán quá cao phản ứng của Bắc Kinh ;
tuy có cam kết bảo vệ nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Ḥa thật, nhưng Bắc Kinh đă
nuốt lời hứa tham chiến từ đầu
năm 1964 (người không đụng đến ta, ta
không đụng đến người) ; Mỹ không hiểu
thâm ư của Bắc Kinh là luôn kiềm chế, không muốn
người “anh em thù địch” Việt Nam sớm
thống nhất.
- Mỹ không hiểu thái
độ "trung lập" của Cambốt, và
đặc biệt của Lào. Sihanouk và Phouma đều
ngiêng về phía Hà Nội. Hiệp định Genève năm
1962 về nền trung lập của Lào không hề ngăn
Bắc Việt Nam để nhiều quân ở Lào và dùng Lào
để thâm nhập. Mỹ làm rất ít để tác
động đến Vientiane và Pnom Penh trong khi Hà Nội
tranh thủ cao và tận dụng rất khôn khéo "nền
trung lập" ngả + nghiêng ấy.
Nếu phía Washington
sớm nh́n thật rơ được những điều
trên để có chủ trương thích hợp th́ t́nh h́nh
đă có thể đổi khác và sự kết thúc chiến
tranh cũng không phải như chúng ta đă thấy.
Tôi đă có dịp nói rơ
hơn các vấn đề này trong cuốn "From Enemy to
Friend".
Bùi Tín (Paris, tháng 10-2003)