Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

CAËN BAƠ KYÙ ÖÙC
 

 

 

 


NHƯ SANH

 

 

 

 

 

 

NHƯ HUYỄN sưu tập

 

 

 

 

 

 

 

Lời Giới Thiệu

 

Tôi vốn ít có thời gian để đọc sách, v́ vậy tôi phải có cách riêng để chọn sách đọc. Trước hết tôi hay nh́n cái tựa sách để đoán xem nội dung sẽ làm ḿnh thích hay không. Sau đó tôi cầm lên và lật ra một trang bất kỳ đọc đại vài ḍng. Nếu trong vài ḍng bất chợt đó mà tôi nhận ra được cái độc đáo của tác giả th́ coi như cuốn sách đó có duyên với tôi, c̣n không th́ vô duyên. Có lẽ v́ cách chọn ẩu tả vậy mà tôi đă không đọc được rất nhiều sách có giá trị khác. Riêng cuốn Cặn Bă Kư Ức th́ chắc có duyên nên khi đọc đại một câu chuyện nào đó, tôi đă phải hỏi mượn người chủ để mang về nghiền ngẫm.

Thật vậy, những câu chuyện ngăn ngắn trong đây lại mở ra những đạo lư dài bất tận. Đầu tiên tôi khá ngạc nhiên v́ biết tác giả đây là tín đồ Ḥa Hảo, một giáo phái ở miền Tây Nam bộ mà từ lâu tôi không quan tâm nghiên cứu. Điều ngạc nhiên kế tiếp là giáo lư trong tập sách này lại đi về hướng hạnh và sự hơn là lư. Đó cũng lại là điều tôi tâm đắc. Khi đọc được một số chuyện, tôi đă phải thốt lên: “Ở Long Xuyên có Bồ Tát!”.

Chưa biết tác giả, chỉ đọc tập sách này, chúng ta cũng h́nh dung tác giả là một người sâu sắc, hiền lành, nghèo nàn, độ lượng, gần gũi với mọi người, và đặc biệt là kiến giải tu hành rất chuẩn mực chân chính. Dĩ nhiên người tín đồ nào cũng được thừa hưởng những lời dạy ban đầu của vị giáo tổ, nhưng chắc chắn là sự dụng công tu hành, sự sáng tạo, sự phát triển là cái độc đáo riêng của vị ấy. Khi gặp bác Như Sanh, tôi biết ḿnh đă nhận xét đúng. Một đời tinh tấn tu hành, xét nét nội tâm, tận tụy v́ người của bác đă làm nên một công tŕnh giáo nghĩa sáng giá. Cuốn sách này xuất hiện lần đầu do anh Như Huyễn ghi lại những câu chuyện mà thỉnh thoảng bác Hai kể cho anh nghe theo kư ức của bác. V́ vậy nó có tên là Kư Ức. C̣n Cặn Bă là do bác Hai muốn xem đây là những câu chuyện vu vơ lặt vặt. Thôi kệ bác!

Tôi có cảm hứng giảng lại toàn bộ tác phẩm CBKU như là một sự giới thiệu rất trân trọng với những người từng có duyên nghe tôi giảng. Và quả thật, những giáo lư trong đây hoàn toàn phù hợp với tinh thần chung của Đạo Phật và nhanh chóng vượt khỏi ranh giới giáo phái để được đón nhận nồng nhiệt khắp nơi.

Những câu chuyện b́nh dị với những lời đối đáp đôi khi khôi hài trong đây đă nêu lên những giá trị bất ngờ cho những người thích t́m cái ǵ quá cao xa. Chúng ta đă t́m thấy đạo trong từng góc nhỏ của cuộc sống khi Bác chèo ghe đi bán cũi, khi bác bị xe quẹt té lăn ra đất, khi ăn tiệc, khi nằm vơng đong đưa... Những Đạp lư rất sâu sắc nhưng đă được khéo ứng dụng vào cuộc sống thường nhật. Điều này làm chúng ta giật ḿnh v́ từ lâu chúng ta quen đi t́m Đạo pháp ở những nơi tôn nghiêm, linh thiêng, trong giảng đường, trong chốn luận đạo...Và điều đó cũng giúp chúng ta hiểu rằng Phật Pháp là ở khắp mọi nơi.

Chúng ta cũng t́m thấy quang cảnh thanh b́nh yên ả của miền tây sông nước mênh mông, những con người Nam Bộ hiền lành chất phác, ngôn ngữ miệt vườn là lạ khôi hài.

Qua tập sách này, chúng ta càng thấy yêu thương con người nhiều hơn v́ loài người có thể sai khác nhau trên nhiều phương diện nhưng điều chắc chắn là vẫn luôn luôn có một chân lư chung cho tất cả.

Xin chắp tay cúi đầu nguyện cầu cho tất cả chúng sinh đồng thành Phật đạo.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

         

          Kính bút

 

Tỳ kheo Chân Quang

 

 

 

 

 

Xin một đề tựa cho những câu chuyện trong đây. Bác Hai bảo là "CẶN BĂ KƯ ỨC"

Ôi! Cặn bă rồi làm sao?

– Cặn bă không thể xài được nữa! Thôi hăy dùng làm phân bón cho những khóm hoa mai hậu.

 

 

 

 

MỤC LỤC

Lời Giới Thiệu.. 1

MỤC LỤC.. 4

LỜI NÓI ĐẦU.. 11

1. THAM HƠN.. 12

2. PHẬT BÀ HÓA HIỆN.. 13

4. PHẬT ĐI NHỜ... 15

5. ĐẶNG CHÀI ĐẶNG CH̀ 16

6. HẠNH PHÚC TRONG TẦM TAY.. 17

7. CẢM NHẬN.. 18

8. BỮA CƠM NGON TUYỆT.. 19

9. TỤNG - NIỆM, CÁI NÀO HƠN?.. 20

10. SỐNG CHẾT LÀ MỘT.. 21

11. XIN MỘT LỜI KHUYÊN.. 21

12. KHỎI CHỈNH.. 22

13. VỀ TÂY PHƯƠNG.. 22

14. XÓA MẶC CẢM.. 23

15. BA PHẢI ! 23

16. THIỆN HAY ÁC?.. 24

17. NGƯỜI TỐT Ở CẢNH NÀO CŨNG TỐT.. 25

18. THÉT THẲNG CON ĐƯỜNG.. 26

19. TẦM ĐẠO KIẾM BÀI 27

20. TU KHÔNG TIẾN?.. 27

21. THỬ L̉NG.. 28

22. TỰ DO VÀ TRÓI BUỘC.. 29

23. SẠCH VỌNG CHẾT C̉N G̀! 29

24. B̀NH THIÊN KHÔNG B̀NH ĐỊA.. 30

25. THIỆN NGHỆ.. 30

27. TÍNH BUÔNG.. 31

28. CHỦ NHƠN ÔNG.. 31

29. ĐỜI VÀ ĐẠO.. 32

32. CHUYỆN KHÔNG ĐOẠN KẾT.. 32

33. ĐỀN TỨ ÂN.. 34

34. GIỮ TR̉N THỜI  CÚNG.. 35

35. VÍT TỲ CŨNG CHÊ.. 36

36. NHƯ MỘT ĐAM MÊ.. 36

37. LÀM CHUẨN.. 37

38. HỐI TIẾC.. 37

39. GIẢ CHƠN.. 38

40. ĐÚNG HAY SAI 39

41. BÀI DỄ LÀM TRƯỚC.. 40

42. RÚT LUI LẸ LẸ.. 41

43. NÊN THEO CÂU NÀO.. 41

44. CẦN G̀ BIẾT LỘI 42

45. CHÁU PHỤ TÔI RỒI 43

46. SỐNG NHƯ LỤC B̀NH.. 44

47. SAO KHÔNG BỀN?.. 45

48. GIỌT LỆ VỊ THA.. 45

49. TẠI SAO PHẢI TU ?.. 46

50. HƠN Ở HỌC NHIỀU.. 47

51. XỊT SÂU TỘI KHÔNG ?.. 48

52. M̀NH HAY MA ! 48

53. NÓI LẠI CHO ĐÚNG.. 49

54. KHÔNG HẾT THAM.. 50

55. KHỔ NHẤT TRẦN GIAN.. 51

56. ĐẠO PHẬT Ở ĐÂY NÈ ! 52

57. LỠ DỊP LÊN THIÊN ĐƯỜNG.. 53

58. MỖI NGÀY MỘT BÀI NGUYỆN MỚI 53

59. NIỆM PHẬT BẢN LAI 53

60. NHẸ  LÁCH.. 55

61. LÀM PHÁCH.. 56

62. PHÁP MÔN GIẢI THOÁT ?.. 56

63. TU THẾ NÀO?.. 57

64. ĐỪNG  ĐẶT THÀNH VẤN ĐỀ.. 58

65. TU NGAY ĐI ! 58

66. TỘI CẤT ĐẦU KHÔNG LÊN.. 59

67. SAY TH̀ CÓ TỘI 60

68. MÂU THUẪN.. 60

69. ĂN  NGỌ.. 61

70. KÍCH THÍCH TỐ.. 61

71. SAO C̉N THƯƠNG GHÉT ?.. 62

72. ĐỀU LÀ TẶNG PHẨM.. 63

73. GIỌT LỆ CHIA TAY.. 64

74. CẮT ÁI LY GIA.. 65

75. DIỆT TÁNH THAM.. 65

76. TỘI  DO TÁC Ư.. 66

77. GẦN MỰC TH̀  ĐEN.. 67

78. TRỜI SANH KHÔNG CÓ DƯ.. 68

79. ĐẠI BỒ TÁT ĐỘ.. 69

80. NHƯ CỦA CHO THÊM.. 70

81. HAI LỐI SỐNG.. 71

82. SẴN  SÀNG.. 72

83. THIẾU CHỨNG MINH.. 72

84. TÔN GIÁO - KHÔNG PHẢI VẤN ĐỀ.. 73

85. GẶP PHẬT BAN NGÀY.. 75

86. Y KINH GIẢI NGHĨA.. 76

87. HỎI LẠI L̉NG M̀NH.. 77

88. ĂN  Ư.. 77

89. NIỆM PHẬT THA THIẾT.. 79

90. TRUNG  ĐẠO.. 80

91. QUA MỘT CƠN ĐAU.. 81

92. ĐỔI MẠNG.. 83

93. TÂM CHAY.. 84

94. NƯỚC MẮM MẶN.. 85

95. ĂN CỰC.. 86

96. ĐĂ CÓ ĐÁP BÙ.. 87

97. CHƠI ĐẸP.. 87

98. HOA TÀN MÀ LẠI THÊM TƯƠI 88

99. CHƯA  CHỊU CHẾT.. 90

 

 

 

 

 

 

LỜI NÓI ĐẦU

Chúng tôi may mắn quen biết Bác Hai Như Sanh và có duyên được kể cho nghe những mẫu chuyện vừa ư dị vừa dí dỏm, qua các cuộc đàm thoại với đồng đạo. Nghe qua chúng tôi thấy rất bổ ích, có thể lấy đó làm bài học tùy nghi ứng xử trong đời thường.

Đây là truyện kể bằng văn nói, điều đáng tiếc là chúng tôi lại không chuyên viết lách. Có thể nói chưa từng làm việc này lần nào. Nhưng v́ sự hữu ích, muốn được nhớ dài lâu nên chúng tôi không ngại ghi lại.

Nếu ngẫu nhiên những CẶN BĂ KƯ ỨC này có lọt trong tầm mắt quư vị độc giả, rất mong "đạt ư quên lời".

Ư Bác Hai Như Sanh chỉ muốn nêu lên một quan niệm tu hành thực tiễn, phóng khoáng, tu không xa rời cuộc sống cũng như người ta không thể xa rời hơi thở, và hiển thị nó bằng những "bằng chứng sống" trong kinh nghiệm tự thân.

Riêng đối với Bác Hai, có xem qua xin Bác bổ chính thêm cho! V́ truyện Bác kể mà chúng con viết lại tất nhiên không thể nào trángh khỏi những sơ sót, thậm chí lệch lạc cả thâm ư Bác gởi gấm trong đó nữa!

NHÓM SƯU TẬP

Ghi chú:

ĐT:Đức Thầy

TS: Thanh Sĩ

SG: Sám Giảng

 

1. THAM HƠN

Có hôm Bác ghé "cốc"[1] của đứa cháu, thấy trên vách có ghi:

"Kiếp sau xin chớ làm người

Làm thân sen báu bên trời Tây phương".

Nhiều người khen hay!

Bác nói:

– Tu mà tham quá!

Nêu chuyện trên dụng ư đưa ra vài dữ kiện để suy tư với cả hai chiều định lư, hầu t́m một  lối thoát chính xác cho khỏi cảnh:

"Kiến kia miệng chậu ḅ quanh,

Tưởng xa nhưng chẳng khỏi vành chậu ô".

Tác giả thấy ḿnh quanh quẩn măi, chưa ra khỏi ṿng đai VỊ  NGĂ nên nêu lên đề tài THAM HƠN ngầm mong một  sự xót thương chung!(

 

 

 

 

2. PHẬT BÀ HÓA HIỆN

Bác Hai[1] thích thực tế, không ưa chuyện mơ hồ. Bác có quen mấy cháu ở Vĩnh Chánh, những người niệm Phật kiên tŕ lắm! Họ tự qui định ngày niệm mấy muôn, nếu thiếu phải thức khuya dậy sớm niệm bù lại.

Một  hôm có dịp Bác nói với các cháu ấy:

– Không rơ cơ duyên làm sao mà Bác lại niệm Quan Thế Âm Bồ Tát nhiều hơn niệm Phật.

Một  cháu hỏi:

– Ông Hai ơi! Con nghe người ta nói niệm Quan Thế Âm hay thường nằm mộng thấy Phật Bà lắm! Vậy Ông có mộng thấy Phật Bà lần nào hôn?

Bác đáp:

– Không! Ông không chiêm bao gặp, mà có gặp Phật Bà hiện ra ban ngày ở Long Xuyên.

Cô bé tỏ vẻ ngạc nhiên, mở to mắt nh́n Bác.

Bác kể tiếp:

– Hôm ấy khoảng 3–4 giờ chiều. Chiếc xe Long Xuyên – Cái Dầu sắp rời bến. Nhưng có một  băng chưa đủ người, v́ có một  ông cùi ngồi nên c̣n hai chỗ không ai chịu ngồi cả. Lẽ ra với số khách đó cũng đủ cho xe rời bến, nhưng v́ dưới bến c̣n khách nên lơ xe t́m cách chở đủ số lượng. Bác tài lại thương thuyết ǵ đó với ông cùi, nhưng ông tỏ vẻ bất b́nh, không chịu. Sau cùng chú lơ xe lại đôi co:

– Ông đi làm tôi mất hết hai chỗ ngồi.

– Việc đó đâu phải lỗi tại tôi, Ông cùi đáp. Người ta không đi mặc họ, tôi đi trả tiền đủ thôi!

Chú lơ cáu lên:

– Ông xuống đi xe khác, tôi cho tiền xe ông!

Ông cùi đáp:

– Tôi cần về nhà, chứ không cần tiền. Nếu ai cũng nói như chú th́ tối nay tôi ngủ đâu?

Không giải quyết được, tài xế và lơ xe lằng nhằng hoài. Hành khách cũng nhốn nháo. Ngay lúc ấy, một  cô hành khách rất "moden" đứng dậy nói:

– Để tôi giải quyết cho!

Chú lơ xoay lại hỏi:

– Chị chịu trả thêm hai chỗ ngồi nữa hôn?

Không cần! Cô ấy nói. Tôi giải quyết ổn thôi.

Rồi cô đến bên ông cùi và nói:

– Thưa Bác, Bác ngồi sát vô con ngồi kế Bác là xong!

Cô vừa ngồi bên ông cùi, một người lên ngồi cạnh cô và một  người khác đến ngồi ghế cô vừa bỏ trống.

Xe rời bến, người cư sĩ chứng kiến sự việc năy giờ tự nhủ:

– Lẽ ra việc làm đó là việc của ḿnh, nhưng v́ ḿnh chờ xem, ngờ đâu cô "moden" kia giải quyết đẹp quá!

(Chính vị cư sĩ này thuật lại chuyện trên).

Đến đây Bác kết thúc câu chuyện:

– Cô gái moden  là hiện thân của Phật Bà đấy!

Cháu bé lên tiếng ngay:

– Con thà trả thêm hai chỗ ngồi nữa, chứ không thể ngồi như vậy được!

Bác nói:

– Phật Bà ngồi mới được! Chứ cư sĩ ngồi không được đâu!(

 

 

4. PHẬT ĐI NHỜ

Bác Hai có chiếc ghe độ sáu bảy chục giạ mà mấy cháu mượn đi mua bán chuối ở Long Xuyên. Bến chuối th́ nhỏ mà ghe chuối rất đông. Chiếc nào đến sau phải đậu ngoài chờ trống mới chen vô được. Ghe chuối nào cũng có 5 – 7 buồng chín, cần giải quyết sớm. Có ghe đến đậu sau ghe Bác. Chủ ghe hỏi đi nhờ trên  mui ghe ḿnh để đem chuối chín lên, Bác đồng ư.

Ghe Bác nhỏ, đậu cạn, mà gánh chuối đi trên mui nên  rúng ghe lắm! Mấy cháu than:

– Đi như  vậy tụi con thấy nhót ruột lắm! Đành rằng ghe của Bác, Bác cho người ta đi nhờ, nhưng cũng tại tụi con mượn đi buôn nên mới có cảnh  này.

Bác đáp:

– Kệ rángg giúp người ta trong lúc ngặt. C̣n ghe ḿnh sớm hay muộn ǵ nó cũng phải hư thôi! Mà... Phật đi đó, chứ  phải người phàm sao?

Mấy cháu hiểu ư nên cùng mỉm cười!(

 

 

5. ĐẶNG CHÀI ĐẶNG CH̀

Cô Bé (cô tên Bé) ở Long Xuyên là cư sĩ tại gia. Cô có  hứa với mấy chị bạn (mấy cô này cất cốc tu theo hạnh xuất gia) là để cô thu xếp việc nhà rồi sẽ cất cốc gần với mấy chị đặng tu.

Hôm nọ, cô Bé gặp Bác Hai bèn hỏi ư kiến (dạo đó mới tiếp thu):

– Con muốn cất cốc tu, chú Hai thấy sao?

Bác hỏi lại:

– Gia đ́nh cháu khá không? Anh em nhiều ít? Cha mẹ c̣n không?

Cô đáp:

– Nhà có ăn, cha mẹ c̣n đủ, anh em có ít người mà ai cũng dành nuôi cha mẹ hết.

Ư cô muốn nói rằng cô rất rảnh, khỏi lo tiếp gia đ́nh. Bác Hai th́ không có lập trường là phải tu tại gia, tu cốc hay chùa ǵ cả! Nhưng v́ cô Bé nói anh em cô có ít người mà ai cũng dành nuôi cha mẹ hết, nên Bác mới nói:

– Ủa! Sao người ta không tu mà biết dành nuôi cha mẹ, c̣n ḿnh tu mà không biết dành nuôi?

Thế là cô Bé bỏ ư định cất cốc. Ít lâu sau  mấy cô cư sĩ rủ cô bé cất cốc hôm nọ đó, mời Bác Hai ghé cốc mấy cổ chơi. Sau khi cơm nước và đàm luận một  lúc lâu, mấy cô mới nói:

– Nhờ anh Hai giải thích giùm: Cái hiếu thế gian  và cái hiếu xuất thế gian!

– Chèn ơi! Hồi nào tới giờ tôi không phân chia cái hiếu ra như vậy nên không biết. Theo ư tôi th́ con người làm cách nào đó để đền ơn cha mẹ, là người con có hiếu.

Mấy cô nói:

– Có người quan niệm phải xuất gia tu hành đắc đạo để cứu vớt cha mẹ. Vậy anh thấy sao?

Bác đáp:

– Cái đó quí vô cùng, nhưng nên nhớ: "Đặng chài đặng ch́; mất chài mất ch́" nhé!(

 

6. HẠNH PHÚC TRONG TẦM TAY

Ông giáo, nhà ở trong ngọn, dạy học ngoài vàm và ở luôn bên vợ ngoài ấy.

Bữa nọ chiếc tàu đ̣ trong ngọn chạy ra, dừng chầm chậm ngay trường học. Có một  người tḥ đầu ra hỏi to:

– Có thầy A ở đó không?

  học tṛ đáp:

– Dạ không có! Thầy A chưa đến!

– Bây báo tin gấp cho ổng hay:"Má ổng chết rồi!".

Tàu mở máy chạy luôn. Học tṛ hỏa tốc chạy cho thầy hay! Ông giáo quưnh quáng, báo cho gia đ́nh bên vợ và Ban Giám Hiệu. Ai nấy vội vàng đi mua đồ phúng điếu. Riêng thầy A đạp xe chạy thục mạng về trước, ḷng buồn vô hạn. Ông đinh ninh từ nay đă mất mẹ rồi!!!

Về tới nhà, xe vừa quẹo vô tới cửa rào thấy mẹ xách hai thùng nước nhỏ tưới trầu, ông quăng ngay chiếc xe, nhào lại ôm mẹ kêu:

– Trời ơi! Má! Má! Má ơi Má!

Bà già ngạc nhiên hết hồn, không biết vụ ǵ mà con bà ôm chặt lấy bà với nước mắt ràn rụa và cứ kêu má măi! Hồi lâu ông giáo mới bệu bạo:

– Vậy mà ai ác ôn, nhắn tin nói má chết rồi!

Lát sau, bên vợ ông giáo và mấy thầy cô đồng nghiệp chở đồ phúng điếu vô đến, hay rơ sự việc ai nấy cười ngất. Sẵn đồ đạc, thôi th́ họ làm một  bữa tiệc ăn mừng!

Bây giờ ông giáo rất vui. Ông không oán trách kẻ trác ḿnh, v́ vụ "chơi khăm" vừa qua giúp ông nhận được bài học quí.

"Mẹ c̣n là nguồn hạnh phúc lớn lao!" Chớ có thờ ơ uổng phí!!!(

 

7. CẢM NHẬN

Có một  cháu hỏi:

– Câu thành ngữ: "Máu ai thơm thịt nấy" là sao Bác?

– Thường th́ mẹ rất thương con. Có khi con ḅ chơi dưới đất, mặt mày lem luốc mà mẹ vẫn ẵm bồng hôn hít một  cách ngọt ngào, thơm lắm!

"Máu ai thơm thịt nấy" là thế!

– Các câu tục ngữ luôn luôn ư nghĩa rất sâu xa, mà câu này con nghĩ măi thấy nó cũng tầm thường, có ǵ đâu! Nay Bác nói con mới nhận ra.

– Cái đầu không biết đâu. Trái tim mới nhận được!(

 

 

8. BỮA CƠM NGON TUYỆT

Vợ chồng chú Bảy mua bán máy cũng phát tài lắm! Chú thím đều dùng chay trường.

Một  hôm gặp Bác, thím than văn:

– Chú Hai ơi! Ông nhà tôi dạo này ổng ngán ăn tương quá rồi! Chú làm sao khuyên giúp giùm.

Nhân  có mặt chú Bảy ở đó, Bác nói:

– Ăn chay không nổi tôi biết nói sao bây giờ, tính sao đó tính.

Rồi Bác nói tiếp:

– Có hai vợ chồng chú Út nọ, đều là giáo viên, đời sống cũng tương đối khá. Chú có người anh là sĩ quan ngụy, học tập hơn 5 năm mới về.

Trong câu chuyện ông anh kể lại những nỗi khổ ở trại cải tạo, có nhắc đến ông Bác sĩ trước là Trưởng ty Y Tế Kiến Phong (Đồng Tháp) cũng học tập cùng trại.

Ông Bác sĩ khao khát được ăn một miếng canh rau tươi. Bên ngoài vách trại có loại rau trai. Ông lấy kẽm gai làm cây móc để khều từng cọng rau kẽ theo vách, khó khăn lắm mới nhặt được một  đọt. Được 5–7 đọt ông rửa sạch để vào lon Guigoz cho vào ít nước và muối, đậy kín gởi trong chảo cơm. Thế là bữa đó có món canh ngon! Mà lâu lắm mới được một bữa như vậy. Chế độ ăn uống trong trại thật kham khổ, một  cái hột vịt tám người ăn v..v.. Cả cơm cũng thiếu!

Nghe ông anh kể nỗi khổ trong tù, chú giáo xúc động lắm!

Chiều hôm đó vợ chú dọn cơm canh  bồ ngót với cá kho. Bữa cơm b́nh dân, đạm bạc thôi, thế mà chú ăn ngon lạ!

Do sự xúc động thương tâm v́ chuyện nhọc nhằn, thiếu thốn, khổ đau trong tù của người anh, khiến chú thấy bữa ăn đơn giản ấy trở thành thịnh soạn, ngon hiếm có vậy!

Bác  kể đến đây thôi, không kết luận.(

 

9. TỤNG - NIỆM, CÁI NÀO HƠN?

Một  ông bạn hỏi Bác Hai:

– Theo ư anh tụng – niệm, cái nào hơn?

Bác trả lời:

– Hai cái đó chẳng có cái nào hơn cái nào cả. Hơn kém do sự dụng tâm của con người. Nếu ḿnh niệm Phật mà thấm nhuần các đức Từ, Bi, Hỷ, Xả của Phật và đem ứng dụng vào đời sống, cái tác dụng đó mới đáng kể. C̣n tụng kinh mà ḥa nhập cuộc sống sát với nghĩa lư trong kinh th́ sự tụng kinh ấy mới có giá trị.

Ngược lại, nếu niệm Phật mà không thể hiện được đức Từ, Bi, Hỷ, Xả của Phật; tụng kinh mà không thấu được nghĩa lư, không  sống khế hợp với lời dạy trong kinh th́ cũng như trả bài vậy thôi! Tóm lại, do dụng tâm đúng sai mà có hơn kém, chẳng phải do tụng hay niệm.

Ông ấy hỏi tiếp:

– Theo tôi nghĩ ḿnh khởi tâm muốn niệm Phật là động. Niệm năm mười tiếng rồi khởi tâm niệm Phật thêm là động nữa. Vậy có phải động không?

Bác Hai đáp:

– Đúng rồi! Khởi tâm niệm Phật là động. Nhưng, thí dụ nhà hàng xóm gặp tai nạn nguy cấp, ḿnh lo lắng cứu giúp lăng xăng th́ đó là động mà ḷng ḿnh cảm thấy b́nh an. Thế là động, mà vẫn tịnh. Lại có khi ḿnh ngồi không, chẳng làm ǵ hết lại không an. (

 

 

10. SỐNG CHẾT LÀ MỘT

Có người hỏi:

– "Sống chết là một". Là sao Bác Hai?

Bác đáp:

– Mỗi một ngày qua, có thể nói ḿnh sống thêm được một ngày, hay bảo rằng ḿnh đă chết đi hết một  ngày cũng đều đúng!(

 

11. XIN MỘT LỜI KHUYÊN

Có mấy cháu đến nhờ Bác dạy cho những kinh nghiệm tu hành.

Bác trả lời:

– Bác chẳng có kinh nghiệm ǵ cả, chỉ coi Sấm giảng mà tu như mấy cháu vậy thôi.

Mấy cháu năn nỉ:

– Thôi th́ Bác cho cháu một  lời khuyên.

Bác nói:

– Việc tu hành điều quan trọng là phải thành thật với chính ḿnh. Nếu không thành thật với ḿnh th́ không thể tu được. Với người, đôi khi ta có thể dấu được. V́ sao? Bởi có những sự thật không nên nói, v́ nói không có lợi. (

 

12. KHỎI CHỈNH

Bác có  người bạn trường chay, vừa sắm thùng suốt lúa mướn. Có lần Bác ghé thăm chơi, xem việc làm ăn của bạn khá không?

Ông bạn ấy than thở:

– Làm kiếm ăn được. Có điều từ hôm suốt lúa mướn đến nay, tôi hay nổi sân quá chừng! Nhiều cái tức lắm! Anh coi, hai ba chủ ruộng qua đây kéo tiếp thùng suốt đến đất của họ đặng suốt. Đến nơi, có con mẹ đó đ̣i phải suốt cho nó trước, v́ nó bận việc nhà. Nó cự nự vang dội! Tức quá, tôi la: "Bộ bây mẹ người ta hả? Đẩy thùng qua mệt muốn chết, bây không tiếp, bây giờ giành suốt trước!"

Đại loại như vậy, theo máy suốt riết tôi hung dữ lắm rồi! Anh ở lại chơi chỉnh tiếp giùm tôi.

– Được rồi! "KHỎI CHỈNH!" Để vậy, người ta gặp ai ăn chay trường họ mới ngán, không dám ăn hiếp chứ!!!(

 

 

13. VỀ TÂY PHƯƠNG

Một lần nọ Bác về viếng chùa Tây An và thăm mấy cô cư sĩ  tu  thuở trước. Lâu quá mới gặp lại, ai nấy đă già cả hết rồi! Mấy cô mừng Bác và trách:

– Sao lâu ghê anh không về đây chơi. Thỉnh thoảng anh ghé qua để khuyến tấn tụi em tu tiến, đặng có về Tây phương, chứ ở cơi Ta bà này nhiều chuyện bực ơi là bực!

Bác nói:

– Thôi về trển làm chi! Ở trần  này mà biết thương yêu, tha thứ và đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau cũng vui rồi. Về Tây phương mà người ngồi cao, người ngồi thấp rồi háy nguưt nhau cũng vậy hà!(

 

14. XÓA MẶC CẢM

Một hôm Bác đạp xe lên Long Xuyên, đến giữa dốc cầu Cái Sắn xe chậm lại v́ hết trớn. Ngược chiều với Bác, một  chú bộ đội mặc quân phục (nylon dầu), đội nón tai bèo, dáng vẻ xem khó thương lắm! Xe chú ta cũng sắp hết trớn nên chậm lại khoảng giữa cầu.

Bên lan can cầu có mấy đứa nhỏ xin ăn ngồi thơ thẩn ở đó. Thấy chú bộ đội vừa đạp xe chầm chậm, vừa nh́n lom lom mấy đứa nhỏ ấy, Bác nghĩ bụng chắc hắn ghét tụi nhỏ lắm (Cách Mạng vốn không thích người ăn xin). Không ngờ, chú ngừng xe lại và ra dấu gọi mấy đứa bé cho tiền, rồi chú thả dốc chạy luôn xuống Thốt Nốt. Bác cũng gọi chúng nó qua cho tiền, rồi thả dốc chạy lên Long Xuyên.

Bấy giờ mặc cảm không c̣n. (

 

15. BA PHẢI !

( LÀM BIẾNG TU ĐƯỢC KHÔNG?

Một cháu gái hỏi:

– Con làm biếng chắc tu không được hả ông?

– Ồ! Làm biếng tu là khỏe nhất. Ông cũng tại làm biếng mới tu đó! Lo gánh vác gia đ́nh, vợ con đau đói, làm ăn thắng thối lỗ lời... mệt chết! Làm biếng nên chọn đường tu là đúng rồi!!!

( HAY LO QUÁ TU ĐƯỢC KHÔNG?

Một  cháu thợ may hỏi:

– Con tánh hay lo "bá ban vạn sự" lu bu chắc tu không được quá chú?

– Tánh hay lo tu được lắm cháu! Thứ "đặng không mừng, mất không lo" mà tu ǵ? Hay lo là tu được, cứ tu đi!

– Hèn chi người ta bảo chú là "ông già ba phải". Cái ǵ cũng được, cũng phải hết!(

 

16. THIỆN HAY ÁC?

Người toán trưởng nhóm tù Nga, một  hôm dẫn tù đi lao động. Một  tù nhân ở chỗ khuất gió, ấm áp (xứ Liên Xô mùa đông lạnh khủng khiếp) nên anh ta ngủ quên. Hết giờ lao động, lính điểm danh dẫn tù về. Thấy thiếu một người, cả toán tù chia nhau đi t́m. Cuối cùng họ gặp anh đang ngủ. Anh ta bị lôi ra. Một người lính trở bá súng toan đánh. Người toán trưởng thấy thế, nhào lại đánh đá người tù túi bụi và đẩy anh ta xếp vào hàng.

Hành động đánh trông hung hăn lắm! Nhưng anh toán trưởng muốn "cứu bồ" đấy! Nếu không làm như thế, để tên lính đập bằng básúng chắc người tù kia mệt lắm!

"Ởû h́nh thức, thế nào là thiện ác!"(

 

 

17. NGƯỜI TỐT Ở CẢNH NÀO CŨNG TỐT

Ở chế độ trước (Ngụy) có lần cả tiểu đoàn quốc gia hành quân vô Ba Thê. Họ đóng quân, đào công sự pḥng thủ chưa xong. Đêm đó, quân giải phóng ra đánh úp. Lính Quốc Gia đại bại! Quân Giải Phóng gấp rút thu dọn chiến trường, đặng rút đi ngay trong đêm.

Một người lính Quốc Gia bị thương nặng (chính anh này về sau kể lại) đang rên rỉ! Một toán lính giải phóng đi ngang thấy anh c̣n sống liền la lên:

– Bắn nó đi, nó c̣n sống đó!

Một người trong đội can:

– Thôi khỏi bắn nó cũng chết!

Rồi giục đi t́m chiến lợi phẩm. Lát sau toán Giải Phóng khác tới, một chú Bộ đội phát hiện người lính Ngụy bị thương nằm đấy liền hỏi:

– Mày c̣n sống hả? Bị thương nặng không?

– Nặng lăm! Người lính Ngụy đáp – Anh làm ơn cho tôi xin miếng nước!

Người lính Giải phóng nói:

– Mày uống nước là chết liền đó!

Rồi anh móc ra một vắt cơm nhăo nhẹt như thiu đưa cho anh lính ngụy và nói:

– Mày nhai cái này nút nút cho đỡ khát, sáng Quốc gia đến cứu mày. Uống nước chết liền đa!

Người tốt xuất thân ở đâu và đứng ỡ lănh vực nào cũng tốt. Người xuất thân từ Tôn Giáo nghĩ sao!(

 

18. THÉT THẲNG CON ĐƯỜNG

Có cô ở Long Xuyên, tu lâu rồi mà thường gặp chuyện buồn phiền, bứt rứt trong ḷng. Gặp Bác, cô ấy hỏi:

– Anh Hai à! Không hiểu sao tôi tu mà cứ gặp chuyện lu bu hoài không yên?

Bác đáp:

– Tại cô chưa "Thét thẳng con đường".

Cô làm thinh! Mấy tuần sau gặp lại, cô nói:

– Hôm trước anh nói mà tôi không dám căi, v́ xưa nay anh nói ít trật lắm. Nhưng việc này tôi nghĩ măi chưa ra! Tôi th́ đă quyết tâm tu từ lâu, nguyện dù bỏ thân, chớ không bỏ đạo. Mà anh bảo tôi chưa thét thẳng con đường, là ư làm sao?

Bác đưa ra thí dụ:

– Như cháu bé (chỉ cháu nội của cô ấy) ḅ ra lan can nhà phía sau mé sông, sắp té. Cô thấy vậy, gấp rút ra bồng nó lên. Lúc ấy những chướng ngại vật như cây củi, bàn ghế, ly chén... nằm ngổn ngang giữa đàng đi, cô bước trángh nó để dễ dàng ra ẵm cho kịp cháu bé, chớ không cảm thấy bực dọc và rầy la như thường ngày. Cô tu mà không thét thẳng con đường nên c̣n bận bịu vô số vấn đề vặt vănh không đâu. Không hỷ xả, cứ ôm gồm đủ thứ nên cô luôn luôn gặp phiền năo là vậy!(

 

19. TẦM ĐẠO KIẾM BÀI

Một hôm Bác nằm ở nhà người quen đọc quyển "Khuyến Thiện". Đọc đến đoạn:

"... thức dậy mà tầm đạo kiếm bài,

Để thi cử khỏi mang tiếng rớt"

Cô gái của chủ nhà ở đâu dưới bếp chạy lên hỏi:

– Anh Hai! Kiếm bài ǵ ở đâu anh?

Th́ bài đang học đây nè!

Bác vừa đáp, vừa vạch vạch quyển giảng.

– Em hỏi thiệt mà!

– Th́ tôi cũng nói thiệt đó! Cô nghe tiếp vài câu nè!

Bác đọc tiếp:

 "Sách khuyến thiện, miệng kêu không ngớt. Mà nào ai có thức dậy tầm..."

Thế là bài học trong tay ḿnh hăy rángg t́m cho hiểu lư để tu hành, đừng mong ngóng viễn vông, phải không cô?

Cô gật gật đầu chạy tuốt xuống bếp. (

 

20. TU KHÔNG TIẾN?

Cô cư sĩ hỏi:

– Chú Hai ơi! Sao tu hoài mà không thấy tiến?

Bác nói:

– Về kiếm chuyện gây lộn một trận với người ta tơi bời th́ nó tiến hà!

Cô tưởng nói chơi nên lập lại câu hỏi một lần nữa.

Bác trả lời y như vậy rồi thôi!

Vài tháng sau gặp lại, cô nói:

– Hôm hổm chú nói, nay con biết rồi.

Bác cũng không hỏi xem cô hiểu biết ra sao.

Sở dĩ Bác trả lời với cô ấy như vậy là v́ thấy cuộc sống của cô rất bằng phẳng, êm đềm, không có đụng chạm, chẳng có ǵ để thắc mắc, suy tư, để soi rọi lại ḷng ḿnh. (

 

21. THỬ L̉NG

Có mấy cháu gái đến chùa Từ  Quang tu học một  thời gian. Trong chùa có bà Năm cũng vào chùa tạm trú để niệm Phật. Bà Năm rất khó tánh, không ai biết làm sao mà ch́u theo bà được! Bà thường rầy la, trách cứ các cháu (nhất là mấy đứa cháu gái). Chúng nó phiền muộn than thở măi!

Ông trụ tŕ chùa thường khuyên răn bà, nhưng tre già khó uốn!

Bác Hai thương xót các cháu v́ mến mộ đạo đức mới đến đây học hỏi, mà phải chịu cảnh ray rức, buồn phiền này!

Một hôm Bác đến cốc mấy cháu để khuyên nhủ:

– Người tu nhờ những cái bất như ư, những sự va chạm, khó khăn để có dịp soi rọi lại ḷng ḿnh mà tu sửa. Ḿnh tu, không lẽ ra ngoài xóm chọc cho thiên hạ mắng ḿnh để ḿnh tu! Thôi sẵn có "Bà Năm rắc rối" đây ḿnh tu với bả đi, không mắc công chọn người khác.

Nhờ lời khuyên có vẻ "têu tếu" đó mà mấy cháu mát mẻ suốt thời gian tu học ở chùa. Mỗi lần, "bà Năm rắc rối" rầy la ǵ đó, th́ mấy cháu nh́n nhau cười cười là hết chuyện.(

 

22. TỰ DO VÀ TRÓI BUỘC

Có người thắc mắc làm phước thiện ḿnh có bị trói buộc bởi phước báo của ḿnh?

Bác nói:

– Ḿnh được tự do trong nghiệp lành, chứ không được tự do trong quả ác.

Ví dụ số ḿnh được phước báo mạnh khỏe, sống lâu, mà ḿnh không muốn sống th́ cứ  tự vận. Hay ḿnh đang giàu có mà không muốn giàu th́ có quyền bỏ đi dễ dàng. Ngặt ḿnh đang đau ốm hay nghèo khổ mà ḿnh không muốn cũng chẳng được. V́ lẽ đó mà chư Phật Tổ dạy ḿnh "Phải làm lành, làm phước" là vậy.

Nghiệp lành đă không trói buộc được ḿnh, mà nó c̣n giúp ḿnh tiến nhanh trên đường đạo nữa.(

 

23. SẠCH VỌNG CHẾT C̉N G̀!

  Giác Thanh  có xem qua quyển Ṭng Lâm Cổ Tích của Bác Hai và Sư thích lắm. Một  hôm, Sư ghé thăm người bạn của Bác.

Sư nói:

– Tôi tin tưởng Bác Hai Như Sanh  kiếp này sẽ sạch vọng.

Người bạn kia kể lại cho Bác nghe, Bác cười nói:

– Người ta sống nhờ có ba cái vọng, sạch vọng chết c̣n ǵ!

Ít lâu sau gặp lại Sư, bạn Bác thuật lại câu nói trên của Bác cho Sư nghe. Nghe qua Sư cười nói:

– Bác Hai nói vậy tôi hiểu, "Kính gởi Bác một thoi".(

 

 

 

24. B̀NH THIÊN KHÔNG B̀NH ĐỊA

Một  cô hỏi:

– Ḿnh thương con cháu đồng như nhau, nhưng sự lo lắng giúp đỡ không đồng. Vậy có bất công không?

Bác Hai đáp:

– Không bất công đâu! T́nh thương như nước,  bằng mặt trên chớ không bằng mặt dưới (B́nh thiên không b́nh địa). Mặt nước tuy phẳng nhưng đáy nước chỗ sâu chứa nhiều, nơi g̣ nỗng chứa ít nước hơn. Con cháu ḿnh thương đồng  nhưng đứa nào khờ khạo tật nguyền th́ ḿnh lo cho nó nhiều hơn đứa khôn ngoan giỏi dắn.

Phật cũng vậy, người thông minh trí tụê Phật chỉ dạy vài lời thôi, c̣n kẻ hạ căn, kém trí tụê Phật phải dạy dỗ đủ điều, thậm chí phải chịu hy sinh chịu gian khổ dùng mọi phương tiện để giáo hóa.

Chứ Phật đối với chúng sanh t́nh  thương  vẫn b́nh đẳng như nhau.(

 

25. THIỆN NGHỆ

Có đứa cháu chuyên làm bơm nước và sửa máy. Thỉnh thoảng vợ chồng nó đến thăm Bác. Bác nói với nó:

– Ḿnh tu hành không phải có thiện tâm, thiện chí mà đủ, cần phải thiện nghệ nữa.Ví như nghề làm của cháu, có thiện chí là làm hết ḷng, có thiện tâm là không thừa cơ hội đập đổ. Nhưng nếu không thiện nghệ khiến cho máy sửa, lẽ ra sử dụng được măn mùa, mà người ta đem về xài nửa chừng lại hư. Thế nên không thiện nghệ th́ ḿnh vẫn phải c̣n  thiếu nợ cuộc đời. Tu không chỉ có thiện tâm, thiện chí thôi, mà cần phải thiện nghệ nữa. Tóm lại, người tu phải hướng về chân thiện mỹ trong  mọi mặt.(

 

27. TÍNH BUÔNG

Người bạn Bác bán thuốc tây, anh cũng lo tu hiền.

Một  hôm gặp nhau, anh em hàn huyên một  hồi, bỗng anh hỏi:

– Anh Hai à! Anh nhắm chừng nào đời tới (một biến cố lớn làm thay đổi tất cả, hoặc tận thế)?

– Chi vậy? Bác hỏi.

– Đặng coi gần tới ḿnh buông!

– Chờ ăn không được mới buông ai mà mang ơn, muốn buông th́ buông trước đi!(

 

28. CHỦ NHƠN ÔNG

Lần đó người bạn Bác đang giảng đạo cho mấy cháu. Bác vừa bước tới, anh ấy nửa đùa nửa thật nói:

– Có ông "Quỷ Cốc Tiên Sinh" đây, nhờ ông giải nghĩa dùm câu này. Mấy cháu nó hỏi: "Khó t́m cho gặp chủ nhơn ông..." Vậy làm sao t́m?

Bác nói:

– Ôi, Thầy đă nói khó t́m, t́m chi cho cực!

Có người hỏi tiếp:

– Không t́m rồi làm sao gặp?

Bác nói:

– Thôi ḿnh làm chủ lấy ḿnh dễ hơn!(

 

29. ĐỜI VÀ ĐẠO

Một hôm Bác vào chùa đàm đạo với vị Tỳ Kheo. Nhằm ngày rằm, trẻ em theo ba mẹ đi chùa khá đông. Chúng nó hồn nhiên đùa giỡn tung tăng, trông vui quá! Vị Tỷ Kheo ấy nói:

– Đời sao tràn đầy ư sống, nh́n lại ḿnh tu sao cằn cỗi khô khan!

Nghe vị Tỳ Kheo than thở như vậy, sẵn thấy giữa chùa có tượng Phật Di Lặc thật to, Bác nói:

– Ông Phật nghe đệ nói ổng cười ḱa!(

 

32. CHUYỆN KHÔNG ĐOẠN KẾT

Hồi trước, có một  dạo phong trào đọc giảng qua máy phóng thanh rất thịnh hành khắp miền Tây. Nơi nào có đông tín đồ PGHH người ta tự động sắm Ampli để phát thanh sám giảng vào những ngày sóc vọng.

Một đêm kia, sau giờ phát thanh sám giảng, đồng đạo cùng nhau dùng trà nước. Chủ nhà thu dẹp máy móc và lấy cái loa (c̣n gọi là bông bí) đút dưới sàng chơng. Một đồng đạo phản đối:

– Cái loa để phát thanh sám giảng mà anh để dưới sàng, như vậy là tội!

Người khác bào chữa:

– Nó (cái loa) bằng sắt, thiếc, ḿnh dùng nó để phóng thanh, chớ tiếng đọc giảng có dính trỏng đâu mà tội!

Một  người khác căi:

– Đành rằng nó bằng sắt, như kinh giảng cũng bằng giấy mực, nhưng ḿnh để bừa băi, chỗ không trang nghiêm sạch sẽ là có tội.

Chủ nhà phân tách:

– Kinh giảng ghi chép lời của Phật Tổ dạy, nên ḿnh phải kính trọng lời dạy ấy trong kinh. Chứ cái loa nào có chứa ǵ đâu? Chẳng qua nó là dụng cụ nhằm khuyếch đại âm thanh. Ai muốn nói ǵ đó th́ nói.

Mỗi người một ư, căi lẽ nhau măi không ngă ngũ. Bỗng có ông bạn quay qua hỏi Bác Hai:

– Ờ! c̣n anh Hai, ư anh th́ sao? Để cái loa dưới sàng vậy có tội không?

Bác không phán đoán chuyện đó mà nói một  chuyện khác:

– Con đường dọc theo làng tôi rất rộng, có khoảng trống vắng không nhà ai ở cả, lại có một  lùm cây mọc cạnh lề đường. Trong lùm cây ấy có 7 – 8 viên đá nằm rải rác. Người đi đường hay ghé lại đây tiểu tiện. Kẻ tới, người lui tiểu tiện trên mấy viên đá ấy, lâu ngày nó nhẵn thín. Một  hôm có mấy chú thanh niên đi qua cũng bết lại đó tiểu. Một  chú vừa đái trên một  ḥn đá vừa nói:

– Cục đá này giống ông Tà[1]  quá bây!

Về nhà không hiểu sao mà ḥn  bi của chú sưng tấy lên, đau nhức quá! Chú phải cúng vái Ông Tà một  nải chuối để tạ lỗi, bệnh mới khỏi.

Đêm đă khuya, mọi người cười x̣a rồi giải tán.

 

33. ĐỀN TỨ ÂN

Tứ ân biết đền làm sao cho rồi?

Đó là câu hỏi của mấy cháu cư sĩ, và đền ân nào trước, ân nào sau?

Bác nói:

Chuyện đời không khi nào rồi đâu, tứ ân cũng thế. Có điều đối xử nhau tất t́nh là rồi, c̣n việc trước sau không cần phải chọn lựa ǵ hết, gặp đâu làm đó.

Ví dụ cha hay mẹ bệnh rất nặng, ḿnh phải chạy đi mua thuốc khẩn cấp. Nhưng khi chạy đến bờ sông, trước khi qua cầu, bỗng ḿnh thấy đứa bé rớt xuống sông. Rồi c̣n phải cân phân việc nào lớn, việc nào nhỏ, làm trước, làm sau hay sao?

Không thể chậm trễ, phải nhào xuống vớt nó lên ngay! Không may lúc nhào xuống lại bị một  cây cọc ngầm đâm chết đi! Không mua thuốc được, chẳng vớt được đứa bé, cũng chưa đem thân giúp ích nước non ǵ cả! Thế mà ḿnh cũng trọn nghĩa ân và mọi người ai cũng đều nghiêng ḿnh trước kẻ vị nghĩa vong thân.

Tất t́nh với nhau là rồi, chứ c̣n chuyện đời không bao giờ hết!

Có hai cháu ở một  địa phương xa xôi. Vùng đó ít ai tu hành, chỉ có hai đứa nó tu thôi, nên thương nhau lắm! Một  đêm nọ có tiếng la cháy nhà! Thằng nầy chạy ra thấy nhà bạn  nó bị cháy. Nó chạy bất kể chết sang tiếp cứu, rủi đụng phải cây dừa người ta kê bên đường để cưa. Nó té xỉu một hồi mới thở được, đau đớn vô cùng mà nó cảm thấy sung sướng. V́ đă hết ḷng với bạn, mặc dù không tưới được gào nước nào cả!(

 

 

 

34. GIỮ TR̉N THỜI  CÚNG

Một  người bạn hỏi Bác Hai:

– Vả như anh đang cúng ngoài bàn Thông Thiên, trời bỗng mưa tới, anh chạy vô không?

Bác đáp:

– Chạy chớ! Vô nhà cúng ra.

Th́ ra năy giờ mấy anh bạn bàn bạc về chuyện một người đồng đạo đang cúng nơi bàn Thông Thiên ngoài sân, bỗng mấy đứa nhỏ trong nhà để đèn sơ ư làm lửa bắt cháy quần áo máng trên vách. Ông hay nhưng vẫn rángg cúng cho rồi mới chạy vô th́ đă cháy hết bốn năm bộ đồ! May mà không cháy nhà v́ chỗ đó ít bổi.

Mấy ông bạn Bác hỏi:

– Trường hợp đó như  anh, anh làm sao?

Bác nói:

– Tôi th́ chạy vô chữa lửa ngay! Giữ  tṛn một  thời cúng mà có thể mất đi hàng ngàn thời cúng khác th́ lỗ lă quá! Cháy nhà là tiêu cả sự nghiệp. Đôi khi suốt đời chưa phục hồi lại được. Bấy giờ lấy nhà đâu để mà thờ, mà cúng nữa?

Vả lại cúng kiểu cháy nhà đó chắc ǵ được an tâm mà  gọi là giữ cho tṛn. (

 

35. VÍT TỲ CŨNG CHÊ

Một  cô cư sĩ hỏi:

– Đức Thầy bảo:

"... Nữa sau lọc lại vết tỳ cũng chê".

Ai mà khỏi vết tỳ?

Bác Hai đáp:

– Vết tỳ ở đây có nghĩa là dối tu, lợi dụng danh nghĩa đạo để tạo đời. Chứ ai lại không lạc lầm sái quấy khi chưa biết tu.(

 

36. NHƯ MỘT ĐAM MÊ

Có người hỏi:

– Đến giờ cúng ngán quá chừng! Làm sao cho đừng ngán hở chú?

Bác nói:

– Hăy biến nó thành một đam mê th́ hết ngán. Công phu cúng lạy mà nhằm ǵ với việc đá banh, thế mà người ta vẫn mê đến quên ăn.

Hồi nhỏ, mỗi lần đang ăn cơm mà nghe ngoài sân banh tiếng đá b́nh b́nh là trong này tôi lua riết cho rồi, không cần biết ngon lành ǵ nữa. Lẹ đặng chạy ra đá banh. Đá banh đâu phải khỏe, lắm lúc mệt muốn đứt hơi nhưng v́ ham quá nên không ngán ǵ cả.

Biến công phu thành một đam mê, thời cúng sẽ vô cùng thích thú.(

 

37. LÀM CHUẨN

Có người hỏi:

– Sao ḿnh cúng mà trong ḷng cứ nghĩ chuyện này nọ lăng xăng, làm sao cho nó yên! Chú Hai?

Bác nói:

– Hồi đó tới giờ có thời cúng nào chú thấy vừa ư không, nghĩa là khỏi phải kềm chế, g̣ ép mà ḷng vẫn thanh thoát, yên vui.

– Dạ cũng có đôi khi.

– Hăy ôn lại xem, hôm ấy làm sao mà tâm được an như vậy? Rồi lấy đó làm chuẩn. Giống như ḿnh đóng đinh dưới nước, cứ nhịp nhịp đầu đinh cái nào đúng th́ cứ theo đó làm chuẩn mà đóng tiếp. (

 

38. HỐI TIẾC

Có ông bạn nhà bên cạnh đường. Một tối nọ ông đang cúng trên gác, bỗng nghe tiếng than văn dưới đường: "Giờ này làm sao dám kêu cửa nhà ai để mượn ống bơm, biết ai có mà hỏi!" Trong khi đó, nhà ông có ống bơm, ông cũng biết người la đang ngặt lắm, muốn kêu cho mượn nhưng sợ lỡ dở thời cúng nên thôi! Cúng xong, ông mới thấy thời gian thừa thăi làm sao! Ḷng cảm thấy hối tiếc, tự trách:

– Phải lúc năy ḿnh ngưng cúng, kêu cho mượn ống  bơm, người ta mừng biết bao! Đây là dịp để ḿnh tu, để ḿnh thể hiện tinh thần đạo đức (ban vui cứu khổ). Rồi bấy giờ mặc sức mà cúng đến sáng cũng được.

Bác nói:

– Chú suy tư như vậy là tiến bộ lắm. Chắc chắn lần sau sẽ không để dịp trôi qua, khỏi phải hối tiếc như vậy nữa!(

 

39. GIẢ CHƠN

Có một  cháu đến thăm Bác và nhờ Bác chỉ dạy phương pháp tu hành.

Bác nói:

– Cháu ghé thăm Bác cám ơn, c̣n việc tu hành hăy coi sám giảng mà tu. Bác Hai cũng coi sám giảng để tu đó!

Nó nài nỉ:

– Ngặt con c̣n kém quá, không phân biệt được giả chơn!

Bác nói:

– Thôi đừng bày phân biệt, bỏ giả t́m chơn lu bu lắm. Có điều cháu nên nhớ là ngoài cái giả không có cái chơn.

Cháu suy nghĩ một  chốc rồi nói:

– Con không hiểu câu đó!

Bác thí dụ:

– Thân ḿnh là giả thân, thân cha mẹ cũng là giả thân, thế mà đem giả thân này hết ḷng phụng sự cho giả thân  của cha mẹ, cái hiếu đó không giả. Nó có sức cảm động đến đất trời; hay trái lại, đem giả thân này ở tệ bạc với cha mẹ, cái bất hiếu đó không giả. Tội đọa đến Địa ngục A tỳ.

Thí dụ khác: Như ḿnh đem đồng tiền, bát gạo giúp cho kẻ khốn cùng đói khó. Thân kẻ đó là giả thân, của ḿnh là giả của, thế mà cái phước đó không giả.

Sám giảng có câu:

"Trồng cây lành vị quả thơm tho,

Tuy không thấy mà sau chẳng mất."

"Ngoài cái giả không có cái chơn", hay nói "Trong cái giả có cái chơn" cũng thế.(

 

40. ĐÚNG HAY SAI

Có chú hỏi:

– Hằng ngày ăn chay, cúng lạy, xem kinh, niệm Phật, tham thiền, vậy đúng hay sai?

Đây là câu tiền đề, dọn đường cho một câu phản đề khác mà nó sẽ hỏi sau.

Bác Hai nói:

– Mấy điều em nói đó cái nào cũng rất đẹp! Hằng ngày làm được mấy điều trên là quí lắm. Nhưng hăy xét lại ḷng ḿnh xem có b́nh an thoải mái không? Và trí tuệ có minh mẫn không? Bác chỉ nói đến minh mẫn thôi, chứ không nói đến phát huệ. Nếu ḷng ḿnh b́nh an thoải mái, trí tuệ minh mẫn là đúng. Ngược lại hằng ngày vẫn làm như trên mà ḷng c̣n u buồn ray rứt, trí tuệ c̣n mờ mịt là c̣n sai, hăy tự t́m mà sửa lấy! Dụ như cái máy mới sửa, thay toàn bộ cái ǵ cũng tốt cả, nhưng quay không nổ hoặc nổ chân  ba không êm là c̣n sai, c̣n trục trặc ǵ đó, phải chỉnh lại cho đúng nó mới êm. 

Bác không biết em nó định hỏi ǵ, nhưng khi trả lời như vậy h́nh như nó thỏa măn không hỏi thêm nữa!(

 

41. BÀI DỄ LÀM TRƯỚC

Có đứa cháu nói với Bác:

– Con không tu th́ thôi, nếu tu con thích lên núi.

Nó tính lên núi tu mau chứng quả.

Bác Hai nói:

– Đức Thầy không phải dạy tu thấp đâu, mà Ngài dạy tu cho kịp thời cơ. Cháu từng học ở nhà trường cũng biết; khi đi thi, thầy cô thường dặn bài nào dễ làm trước, câu hỏi nào dễ đáp trước. Nếu cứ lo giải đáp bài khó, chừng măn giờ cái khó làm chưa xong, cái dễ th́ chưa làm, thế là hỏng!

Hội này là hội thi đấy!

"Thiên Đ́nh lịnh mở hội thi". ( ĐT).

Nên cái ǵ trong tầm tay ḿnh cứ làm xong đi! Như  ơn cha nghĩa mẹ, cḥm xóm, đồng bào nhơn loại đó, hăy tu coi cho được sẽ có điểm, vậy mới kịp ngày lập hội.

Sám giảng có câu:

"Đền nợ thế nghĩa ân trọn vẹn,

Chừng lập đời khỏi thẹn tấm thân".

Chớ mong t́m cái cao xa mà lỡ cuộc!(

 

42. RÚT LUI LẸ LẸ

Có lần Bác ghé nhà người chị thăm chơi. Cơm sáng xong Bác kiếu về.

Chị ấy nói:

– Mới ăn cơm rồi không nói ǵ hết, về sao?

– À! Để tôi nói chuyện này chị nghe:

Bữa đó có hai cô gái đi đàng trước, anh bạn tôi đi sau, nghe mấy đứa nói với nhau:

– Mầy nữa có chồng, chỗ nào bà già ăn chay trường  mầy bái tổ rút lui lẹ lẹ nhen!

– Sao vậy? Cô kia hỏi.

– Mấy bà ăn chay trường khó dàng trời   mây đi!

Thuật đến đây Bác Hai nói với chị chủ nhà:

– Thôi để tôi rút lui lẹ lẹ nhé!

Chị cười đáp:

– Dạ được, chuyện kể đó đủ bữa cơm rồi!!(

 

43. NÊN THEO CÂU NÀO

Một  cư sĩ hỏi Bác:

– Đức Thầy có chỗ dạy:

"Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu

Th́ mới được ṭa chương dựa kế".

Chỗ khác Ngài lại dạy:

"Tu không cần lạy  cần qú,

Ngồi đâu cũng sửa vậy th́ mới mau".

Vậy phải theo hai câu nào mới đúng?

Bác nói:

– Theo hai câu sau mới chánh, c̣n sự cúng lạy chỉ là điều phụ thuộc:

"... Cúng với lạy khó trừ cho đặng"  ĐT).

Nó là điều phụ thuộc để nhắc nhở ḿnh nhớ bổn phận mà thôi!

Tóm lại phải theo hai câu sau, nhưng mà nên xét kỹ xem, có làm biếng th́ sửa ngay.

"Ngồi đâu cũng sửa..." là vậy!

– Thế là không thể bỏ câu nào cả! Cô nói.(

 

44. CẦN G̀ BIẾT LỘI

Một hôm nói chuyện với các bạn, trong bàn có một cư sĩ mà Bác không quen lắm. Câu chuyện đưa đến chỗ Bác nói:

– Muốn vớt kẻ đắm thuyền, ḿnh phải biết lội mới được.

Chú cư sĩ ấy bẻ:

– Như có đứa bé té xuống mương cạn, nước chỉ tới bụng thôi! Tuy nhiên đối với nó cũng nguy hiểm đến tính mệnh. Ḿnh nhảy xuống vớt nó lên, đâu cần phải biết lội?

Thấy chú cư sĩ quá nệ danh từ, không thông cảm ư người đối thoại. Bác thuật thêm câu chuyện:

– Chú nói vậy, tôi nhớ hồi mới tiếp thu, có mấy chú Bộ đội muốn lội qua con rạch nhỏ, nên hỏi thăm ông lăo ngồi bên bờ:

– Bác ơi Bác! Rạch này lội qua được không Bác?

Ông lăo đáp:

– Được, người ta lội qua hoài có ǵ đâu?

Thế là mấy chú Bộ đội xăn ống quần lên lội qua độ một mét, hụt chân nước tới cổ, hoảng hồn ḅ lên bờ càu nhàu:

– Vậy mà Bác bảo lội được!

Ông lăo nói:

– Cứ phóng đại qua đi chừng một sải là tới mé bờ bên kia hà!

Mấy chú Bộ đội trách:

– Giời ơi! Bơi mà Bác gọi là lội th́ chết tụi con rồi!

Mọi người cười x̣a; đó là không thông cảm danh từ.

Cái Bác muốn nói ở đây là:

"Tập cho ḿnh bơi lội thật hay,

Mới có thể vớt người ch́m đắm". (TS)

Lẽ đương nhiên phải vậy. Chú cư sĩ kia lại kéo qua việc lội dưới mương cạn thế là hết nói!

Qua chuyện trên, Bác Hai thấm thía được hai câu giảng của Đức Thầy:

"Nền đạo đức ta bày quá cạn

Mà dương gian c̣n gạn danh từ".(

 

45. CHÁU PHỤ TÔI RỒI

Một hôm nói chuyện với các cháu về cái khổ nằm ở trong ḷng ḿnh, khỏi phải lo đổi thay ngoại cảnh. Rồi Bác đưa ra câu chuyện:

– Bác có một  người bạn mang một  nỗi khổ  tâm cực kỳ nghiêm trọng về vấn đề gia đ́nh. Anh quyết định tự vận, đêm ấy anh viết thư tuyệt mạng xong, vừa bưng ly độc dược lên uống, anh chợt nhớ đến mấy người bạn cư sĩ ở núi Cấm. Anh liền nghĩ lại:

– Thôi, kể  như ḿnh đă uống và đă chết rồi! Mai ḿnh đi tu quách cho xong, ai làm ǵ đó th́ làm.

Hạ quyết tâm xong, ḷng anh rất yên ổn.

Sáng hôm sau anh lên núi Cấm tu. Xế chiều, anh em kéo nhau lên vồ Bồ Hong ngồi nh́n xuống núi, anh nói:

– Hồi hôm, nều tôi uống ly nước đó th́ bây giờ đă chôn cất xong rồi, ai về nhà nấy, riêng ḿnh th́ nằm dưới ḷng đất lạnh, việc đời th́ vẫn cứ trôi qua! 

Bác kết luận:

– Nỗi khổ đến tự vận không phải là nhỏ, thế mà anh chỉ đổi quan niệm thôi (kể như ḿnh chết rồi) tự nhiên hết khổ, bước sang một giai đoạn khác như trở bàn tay.

Th́ ra cái khổ nằm trong ḷng ḿnh, chứ không nằm trong cảnh. Trường hợp của anh bạn trên hoàn cảnh vẫn c̣n  y mà anh được yên tâm.

Ngay lúc đó có một  cháu cư sĩ lẹ miệng nói:

– "Mượn cảnh tịnh cho ḷng thanh tịnh

Chưa phải là chơn chánh pháp môn".(TS)

Ông ấy tu như vậy có đúng không?

Bác than:

– Thôi! Vậy là cháu phụ tôi rồi! (

 

46. SỐNG NHƯ LỤC B̀NH

Một  hôm Bác ghé thăm chú Tám, người bạn cư sĩ. Gặp Bác chú liền than phiền:

Thiệt! Bây giờ không biết sống làm sao cho  yên, nay bắt mai thả hoài!

Bác nói:

– Thôi, "sống như lục b́nh" vậy! Có trôi đâu, tấp đâu thây kệ, lục b́nh đâu có quyền đ̣i hỏi một  bến đỗ an toàn. Chỉ một lượn sóng nhỏ, một  làn gió nhẹ cũng đủ làm nó tan tác. Thế mà nó vẫn nẩy nở và trổ bông được. Vậy là nó đă thể hiện được sức sống của nó rồi. C̣n ḿnh sống giữa biển trần đầy sóng gió cũng thế. Đâu ai chịu cho ḿnh một bến đỗ an nhàn! Thôi th́ kiếp phù sinh có truân chuyên trôi giạt thế nào cũng mặc. Điều quan trọng là làm sao tâm hồn ḿnh trưởng thành và thăng hoa là được rồi. (

 

47. SAO KHÔNG BỀN?

Có một đồng đạo hỏi:

Sao có người tu hạnh rất cao, thấy dễ nể, rồi ít lâu lại sa ngă, bỏ đạo?

Bác đáp:

– Không cánh mà tung ḿnh lên để bay th́ phải rớt thôi!

– Có người tu thật tinh tấn, ít lâu lại lui sụt, giải đăi! Sao vậy?

– Đi nhón gót th́ đi chơi được ít ṿng chứ đi lâu dài sao được!(

 

48. GIỌT LỆ VỊ THA

Một vị nữ  tu xuất gia ở chùa. Cô bị đau tim, con nhà nghèo, học vấn kém. Cô hay tủi thân, mặc cảm vô phước nên cứ buồn khóc hoài! Đồng đạo khuyên lơn, cô lại càng khóc nhiều hơn!

Một  hôm Bác đến chơi, cô trụ tŕ tŕnh bày sự t́nh và dẫn cô ra nhờ Bác  khuyên  giùm, biết đâu có duyên giúp cô bớt khổ được.

Bác nói với cô ấy:

– Ờ! Khóc được cứ khóc, mà thay v́ khóc cho bản thân ḿnh, nên khóc giùm cho kẻ khác, ḿnh sẽ hết khổ. Sự thật dù định mệnh có khắt khe đến đâu, nh́n kỹ xung quanh ḿnh vẫn c̣n có biết bao người đáng khóc hơn, đau khổ hơn. Khóc thương cho kẻ khác, cháu sẽ được niềm vui.

Nh́n ra sân chùa thấy tượng Quan Thế Âm lộ thiên tay cầm tịnh b́nh, tay cầm nhành dương liễu, Bác nói tiếp:

– Giọt nước mắt vị tha là giọt nước cành dương, nó rưới tan những ưu sầu phiền năo. C̣n giọt nước mắt khóc cho bản thân là giọt lệ đắng cay! Tánh hay khóc th́ khóc giùm cho người ta, ḿnh sẽ hết khổ.

Ít lâu sau, có mấy cháu gái gặp Bác cho hay;

– Nhờ Bác khuyên mà cô ấy dạo này bớt khóc nhiều lắm rồi, cô mừng lắm! (

 

49. TẠI SAO PHẢI TU ?

Có người hỏi:

– Sám giảng có câu:

"Nh́n Phật giáo mà t́m cái lư

Coi tại sao ta phải tu hành".

Vậy tại sao ta phải tu?

Bác đáp:

– Câu đó không phải để t́m giải đáp chung mà mỗi người nên tự hỏi và tự trả lời. Câu trả lời cũng thay đổi theo hoàn cảnh và tŕnh độ tiến hóa của mỗi cá nhân. Có người buồn việc nhà, thất vọng hoặc sợ tận thế... rồi phát tâm tu, như Bác Hai v́ bệnh lao phổi tuyệt vọng mới tu. Rồi thời gian qua, lời giải đáp cũng thay đổi theo sự trưởng thành của ḿnh.

Hiện nay Bác Hai tu không v́ tuyệt vọng nữa, mà v́ thấy đường tu rất đẹp! Tu là hạnh phúc, cho nên vẫn theo đuổi việc tu hành. Và nếu ngày mai trưởng thành hơn nữa, câu trả lời sẽ khác và xác thực hơn! (

 

50. HƠN Ở HỌC NHIỀU

Có mấy cháu t́m đến học hỏi kinh nghiệm tu hành với Bác Hai.

Bác thường nói:

– Thật ra Bác không giỏi ǵ hơn mấy cháu đâu! Có chăng Bác hơn ở chỗ Bác học với mấy cháu nhiều hơn mấy cháu học với Bác.

Mấy cháu hơi hoài nghi lời nói đó, nhưng đấy là sự thật. Cái khôn ngoan hay cái sai lầm quê dốt của kẻ khác, đều là bài học quí cho ḿnh. Có điều cần phải nhận ra được những bài học ấy.

"Nhận được cái ngu là khôn

Nhân được cái quấy là phải ".(

 

51. XỊT SÂU TỘI KHÔNG ?

Hồi trước lúc c̣n ở chùa Từ  Quang, Bác có làm bốn công lúa Thần Nông.

Có cô cư sĩ đến hỏi:

– Anh làm lúa có xịt sâu không?

– Có chứ! Bác đáp.

– Xịt vậy có tội không?

– Tội chứ, giết người ta mà!

– Tội sao anh làm?

– Không làm, để người khác làm ḿnh ăn, đă có tội mà c̣n thêm tánh xấu: "Tánh ăn gian" nữa! (

 

52. M̀NH HAY MA !

Có bà già đau mê man mấy ngày rồi tỉnh lại. Bà nghe người xung quanh bàn tán: "Có người chết rồi bị ma nhập xác, sống lại ăn uống thời gian chừng ngả ra chết là śnh lên, gịi lúc nhúc". Thế nên bà bàng hoàng, ngờ vực, lo ngại không biết ḿnh đây là người hay là ma quỷ nhập. Thậm chí con cháu về đêm cũng ơn ớn bà nữa! Bà đem tâm sự than văn với Bác. Bác giải thích:

– Nếu chị biết sợ, vậy là chị chớ ai!

Nói thế mà thấy bà vẫn chưa yên tâm, Bác đổi lối dẫn dụ khác:

– Thôi kể như ḿnh là ma đi! Ma hay quỷ không phải là vấn đề, miễn ḿnh c̣n biết niệm Phật, sợ tội phước, lo tu hành là đủ rồi.

Đức Thầy có dạy:

"Dẫu Tiên, Phàm, Ma, Quỷ, Súc sanh

Cứ nhứt tâm tín nguyện phụng hành

Được cứu cánh về nơi an dưỡng..."

Như vậy dù ḿnh là người hay ma quỷ cũng chẳng sao! Miễn người c̣n biết tu hiền niệm Phật là được rồi!

Nghe tới đó bà mỉm cười có vẻ an tâm lắm! (

 

53. NÓI LẠI CHO ĐÚNG

Có cháu cư sĩ thường đến mua sách ở một sạp sách bán sold (thanh lư) tại Thành phố và quen thân với chủ sạp. Một hôm nó đến đó t́m mua sách, chợt có người khách cũng quen với chủ sạp ghé vào. Gặp nhau họ bàn bạc về vấn đề tôn giáo một hồi. Cuối cùng người khách nói:

– Đạo Phật chủ trương làm lành!

Chủ sạp bác:

– Không, đạo Phật không chủ trương làm lành.

Câu chuyện đến đây th́ người khách kiếu đi.

Cháu cư sĩ về nhà trọ mà ḷng cứ măi bứt rứt, đến sáng thay v́ ra bến xe Miền Tây nó quay lại sạp sách hôm qua.

Chủ sạp hỏi:

– Ủa! Anh bảo hôm nay về, sao c̣n trở lại?

Cư sĩ đáp:

– Hôm qua, nghe anh với ông khách bàn luận về "Đạo Phật chủ trương và không chủ trương làm lành" đó! Tôi chưa thỏa măn, v́ nói như vậy chưa đủ.

Người bán sách hỏi:

– Vậy theo anh, phải nói làm sao mới đủ?

– Theo tôi, đồng ư với anh là Đạo Phật không chủ trương làm lành, nhưng hễ làm ra, đều là lành cả!

Người bán sách tươi cười, gật đầu tỏ ư rất hài ḷng. Cháu cư sĩ nói tiếp:

– Vậy là mai tôi có thể về.

Chuyện trên được kể lại cho người bạn Bác Hai nghe. Anh ấy nói:

– Tôi cũng vậy, có lần trả lời lỡ một câu, mà không ngủ được! Hôm ấy, có mấy cháu gái đến thăm tôi. Nó than văn việc làm ăn thất bại, lỗ lă và nói sự tổn thất nhiều mặt nặng nề do sự túng quẫn gây nên. Chúng  kết luận:

– Mất tiền là mất tất cả, phải hôn Bác?

Tôi trả lời:

– Ừ! Câu chuyện kết thúc. Trời tối, mấy cháu về nhà quen nghỉ. C̣n lại một ḿnh, tôi ôn câu chuyện đàm luận với mấy cháu ban năy, bỗng nhớ lại việc ḿnh tán thành câu nói "Mất tiền là mất tất cả" là sai rồi! Thế là tôi ngủ không yên, khoảng bốn giờ sáng, tôi chống gậy lần ṃ đến nhà quen mà mấy cháu nghỉ trọ, để đính chính. Gặp chúng nó tôi nói:  “Câu nói "Mất tiền là mất tất cả" mấy cháu hỏi đêm qua, Bác ừ là sai, không đúng đâu! Mà chỉ có:

"Mất Đạo mới là mất tất cả"

Bấy giờ ḷng tôi mới yên! (

 

54. KHÔNG HẾT THAM

Có đồng đạo hỏi:

– Sao tu hoài không thấy tiến, không hết tham?

Bác nói:

– V́ không trau sửa tấm ḷng, chỉ đổi đối tượng nên tu hoài cũng vậy. Hồi chưa tu th́ ham quyền thế, tiền của. Bây giờ tu th́ tham phước đức, mong cho mau thành Phật, thành Tiên, đấy cũng là ḷng tham thôi!

Đổi đối tượng chứ không đổi ḷng tham, có khi c̣n tham hơn. Thế nên, tu hoài mà không hết tham vậy! (

 

55. KHỔ NHẤT TRẦN GIAN

Bác quen với mấy cháu làm giáo viên. Tụi nó thuật:

– Có một cô ở gần nhà luôn than văn:

"Tôi là người khổ nhất trần gian!"

Bác cũng không hỏi xem khổ cái ǵ mà dữ vậy!

Ít lâu sau, có dịp Bác ghé lại đó chơi. Mấy cháu nói:

– Cái cô mà có lần tụi con nói với Bác là khổ nhất trần gian đó! Bây giờ hết khổ nhất rồi.

– Sao vậy? Bác hỏi.

– Bởi có lần cổ đi vô trại ruộng, bên dưới kinh, tại đó chiếc xuồng cà rèm của hai vợ chồng nghèo lắm! Người vợ c̣n ôm con đỏ, mà họ cứ cắn đắng, gây gổ nhau luôn.

Tối nọ, không biết xảy ra việc ǵ mà ông chồng đánh chửi bà vợ thậm tệ, rồi đuổi lên bờ. C̣n hăm he:

"Trại nào mà chứa vợ tôi, tôi sẽ phá trại đó luôn!"

Bà vợ phải ngồi dưới gốc cây ôm con khóc suốt đêm!

Cô nói:

– Thấy người ta thân phận đàn bà như ḿnh mà vô phước quá! Đă  nghèo đói, khổ sở, mà c̣n gặp ông chồng chẳng ra ǵ, lỗ măng, vũ phu không t́nh nghĩa ǵ cả! Cô thông cảm và xót thương người đàn bà kia. Cô nghĩ phải có đem tiền theo, cô sẽ giúp đỡ họ phần nào.

Th́ ra gặp cảnh đó, nên bây giờ cô thấy "khổ nh́" rồi!

Nhân đó, Bác nói nhắn với mấy cháu bảo cô ấy nh́n xuống một chút sẽ bớt khổ, cứ nh́n lên mấy bà hoàng hoài th́ "khổ nhứt" hà!(

 

56. ĐẠO PHẬT Ở ĐÂY NÈ !

Một hôm ở chùa Từ Quang, mấy cháu thanh niên ngồi xung quanh nền mộ "Thầy Phó" đàm luận đạo đức.

Cùng lúc đó có một cháu đang lăn phuy xăng ỳ ạch. Đến khi dựng đứng phuy lên, nó nhấc không nổi!

Bác Hai chạy lại tiếp nhưng cũng không kham v́ sức Bác có ăn nhằm ǵ. Bác vỗ vào phuy xăng b́nh b́nh nói lớn:

– Đạo ở đây nè! Mấy đệ lại đây tu! (

 

57. LỠ DỊP LÊN THIÊN ĐƯỜNG

Lần đó Bác đạp xe lên Long Xuyên. Phía bên kia lề đường, gần cầu Rạch G̣i, thấy một người đang bơm xe Hon đa, một tay th́ bơm, một tay th́ với vịn cái ṿi xe, trông khó khăn lắm!

Bác muốn chạy qua vịn giùm cái ṿi cho ông ấy bơm, mà xe trên cầu cứ đổ xuống dốc ồ ạt, rất khó qua. Bác đành đạp xe đi luôn! Đi đă khá xa mà trong ḷng vẫn c̣n ray rứt.

Bác tự nghĩ, phải lúc năy ḿnh quyết định không ngại khó, qua giúp người th́ đẹp biết mấy! Chuyện dù không đáng, nhưng thể hiện được t́nh người. Sự tương trợ đúng lúc cần dù nhỏ, lớn cũng là niềm vui vô hạn!

Hôm nay ḿnh bỏ lỡ một dịp lên Thiên đường rối đấy! (

 

58. MỖI NGÀY MỘT BÀI NGUYỆN MỚI

Một hôm, Bác cúng xong, nảy ra một ư nghĩ bèn nói với người bạn ở chung nhà:

– Lẽ ra mỗi ngày ḿnh phải có một bài nguyện mới. Mới ở đây không phải đặt ra bài nguyện khác, mà là khi đọc bài nguyện, ḷng ḿnh phải thiết tha như mới phát nguyện lần đầu vậy. Chứ không phải nguyện như học tṛ trả bài! (

 

59. NIỆM PHẬT BẢN LAI

Có cô ở Long Xuyên nói với Bác:

– Anh hai giải giùm thế nào là Niệm Phật Bản Lai? Tôi nghe thấy huynh kia bảo xoay cái niệm vô trong làm sao đó mà tôi không hiểu nổi!

Bác nói:

– Tôi không biết niệm theo lối đó!

Chừng Bác kiếu về, cô ấy nói:

– Mua bán nhiều lúc cũng phiền ghê! Cúng xong, ngồi niệm Phật cũng không yên, người ta cứ kêu mua đồ hoài, vừa xả ra bán, mới ngồi lại th́ người khác kêu nữa! Mà nghĩ cho cùng cũng tại ḿnh bày buôn bán nên mới có cảnh này chứ sao! Nhưng tôi trong cảnh mẹ góa con côi, mà làm ruộng, làm sao nuôi con ăn học nổi!

Nghe cô than như vậy, Bác nói:

– Hồi sáng cô hỏi việc  niệm Phật bản lai, tôi không trả lời, v́ thật ra tôi không biết cái vụ niệm xoay vô, xoay ra sao đó; c̣n bây giờ để tôi nói niệm Phật bản lai cho cô nghe nhé!

Mỗi khi niệm danh hiệu Phật, cô phải nhớ luôn đến đức Từ, Bi, Hỷ, Xả của Phật đề ḷng ḿnh nương theo đó mà được thanh tịnh, mà ứng dụng tinh thần từ bi ấy vào trong đời sống.

Bấy giờ, người ta có kêu lúc cô đang niệm Phật, cô lấy ḷng Từ Bi Hỷ Xả ra để xử sự, tiếp đă vui vẻ, mua bán nới nang, chẳng những có t́nh nghĩa mà việc làm ăn cũng phát đạt. Bán xong, ḿnh tiếp tục niệm nữa, như vậy vừa niệm Phật vừa có lợi. Nếu chấp ở chỗ tiếng niệm Phật phải dính liền, có người kêu tức bị đứt đoạn. C̣n niệm Phật như trên th́ không bị đứt, mà c̣n có lợi ích thiết thực nữa.

Sau này, trên Chắc Cà Đao có vợ chồng chú Út, họ rủ nhau tu ḱnh. Khuya ông cúng xong, ngồi niệm Phật, c̣n thím Út phải gánh rau cải ra chợ bán. Thím nghĩ buồn v́ thân phận đàn bà thua thiệt quá!

Có một  cháu, biết câu chuyện niệm Phật bản lai nói trên, đem thuật lại cho thím Út nghe. Từ đó, Thím hoan hỷ lắm! Khuya thím vui vẻ gánh cải ra chợ bán, thím c̣n nói thầm (sau này thím thuật lại) với ông chồng: "Ông ngồi đó niệm Phật. Ông niệm Phật chưa chắc ǵ ai nhờ, chứ tôi ra chợ niệm Phật người ta nhờ lắm đó!"

Công việc không đổi, chỉ cần đổi quan niệm mà từ thua trở thành thắng, cái bứt rứt đổi ra vui vẻ nới nang, nhường nhịn, được ưa mến và đắt hàng.(

 

60. NHẸ  LÁCH

Hôm nọ Bác đi xe đ̣, chật quá phải ngồi trên mui. Bác thấy một  con gà mái đang bươi ăn giữa lộ, xe tới nó hoảng chạy, nhưng chạy xuôi chiều xe. Khoảng cách giữa gà và xe cứ thu ngắn dần: 4m, 3m  rồi 2m, thấy gà sắp bị xe cán chết đến nơi, bỗng nó tạt ngang vô lề, xe chạy trớt, nó đứng tỉnh bơ như không việc ǵ cả!

Bác suy tư:

– Trong đời thường của chúng ta cũng vậy.  Vói các cuộc đấu tranh vô cùng phiền lụy, ta chỉ cần "nhẹ lách" qua bên là được yên ổn ngay! (

 

61. LÀM PHÁCH

Có người nói:

– Tôi với người ngoài th́ sao cũng được, c̣n em út, con cháu trong nhà mà nói không nghe th́ bực tức quá! Sao vậy anh?

Bác nói:

– Tại "làm phách" chớ sao! Tính ḿnh là kẻ cả, bảo kẻ dưới nó không nghe th́ tức chịu không được! Chứ ḿnh tính nó như bao nhiêu người khác, th́ đâu có vấn đề. Nghe th́ nó nhờ, không nghe th́ thôi.(

 

62. PHÁP MÔN GIẢI THOÁT ?

Bác có người bạn, xưa là sĩ quan, nay đă thất sũng. Một  hôm, Bác gặp mấy anh mang h́nh thức của người tu. Qua câu chuyện trau đổi ngăn ngắn, anh bạn hỏi:

– Thời này, ḿnh nên tu giải thoát hay không, và tu pháp môn nào mới giải thoát?

Bác nói:

– Thời nào cũng cần phải tu giải thoát cả! Ngặt một  điều là không có pháp môn giải thoát.

Anh bạn ngạc nhiên nh́n Bác.

Bác nói tiếp:

– Cũng như không có cái kiếng biết chữ, ḿnh phải biết chữ rồi, khi mắt bị làn th́ mua mắt kiếng về mang để lấy chữ. Chứ không có mắt kiếng để mang cho biết chữ. Tóm lại, không có pháp môn giải thoát. Chỉ có những tâm hồn giải thoát hay không thôi. Nếu tâm hồn cởi mở th́ hành pháp môn nào cũng giải thoát. Nếu ḷng c̣n câu nệ, cố chấp, nhiễm ô... th́ pháp môn nào cũng trói buộc cả! (

 

63. TU THẾ NÀO?

Có lần Bác về thăm chú Ba, một  người bạn thân. Anh em bàn luận đạo lư một  hồi, rồi chú hỏi:

– Anh bây giờ đang tu như thế nào?

(Ư chú muốn hỏi xem Bác đang tu Thiền, Tịnh, Phước hay Huệ...), Bác không trả lời việc đó, mà nói:

– Năy giờ th́ không có tu!

Lẽ ra câu trả lời tới đó là đủ, nhưng sợ sau này em cháu nghe như vậy đâm hoang mang nên Bác rángg nói thêm:

– Nếu lát nữa có chuyện ǵ th́ tu.

Sau này nghe chuyện, chúng tôi nhờ Bác nói thêm cho rơ vấn đề hơn.

Bác ví dụ:

– Ḿnh đang coi lái ghe, mà năy giờ ghe đi ngay, ḿnh không  cần bẻ lái; nếu nó chinh lũi, bấy giờ mới bẻ. Năy giờ Bác nói chuyện đạo, tâm không nghĩ quấy th́ có ǵ để mà tu, sửa. Nhưng nói ngắn quá, sợ em cháu sau này hoang mang nên nói thêm "lát nữa nếu có ǵ th́ tu" là vậy! (

 

64. ĐỪNG  ĐẶT THÀNH VẤN ĐỀ

Một  hôm, có đứa cháu là thợ may, đến thăm và hỏi Bác:

– Con may đồ, rồi trao hàng cho khách khác phái, con trao thẳng cho họ được không, hay phải qua trung gian (để xuống bàn ghế...) để người ta lấy?  Hồi xưa có lệ là "nam nữ  thọ thọ bất thân": Chữ  thọ trước là trao, chữ  thọ sau là nhận,  tức nam nữ không được nhận đồ trực tiếp, mà phải để qua một trung gian nào đó rồi mới được nhận. Có mấy huynh trưởng dạy con như vậy.

Nghe nó kể, Bác cười nói:

– Chuyện đó đă lỗi thời rồi. Đừng đặt thành vấn đề thêm khó khăn, rắc rối. Trao hàng làm như vậy, c̣n đo cắt mới làm sao?  Hay đi xe ngồi chen chúc giữa nam nữ th́ sao?

Thôi, việc đời cứ tùy tiện, quan trọng là phải "chính tâm".(

 

65. TU NGAY ĐI !

Mấy mươi năm trước, có lúc Bác đi bán củi tràm ờ Đồng Tháp với người bạn.

Vùng Đồng Tháp đất khô cằn, không có cây cối, nên nhà nghèo cũng phải rángg mua củi, chứ không quơ đâu được.

Ghe chèo ngang một cḥi nọ, có người đàn bà ẵm con chạy ra, kêu lại hỏi giá. Bác nói:

– Củi 100đ một mét.

Cô ấy trả 90 đ, 95 đ, rồi 97 đ.

Bác nói:

– Chúng tôi bán không có thách giá.

Cuối cùng cô đồng ư mua một thước. Khi trả tiền đếm đến 95 đ, cô dừng lại xin bớt 5đ. Bác không chịu. Cô trả thêm 2 đ và nói:

– Bớt 3 đ cho con tôi ăn bánh đi ông!

Bác muốn cho nhưng nghĩ lại "ḿnh đi hùn với bạn, nếu rộng răi quá cũng ngặt" nên từ chối. Cô ấy phải trả đủ.

Xô ghe ra chèo đi. Bác ngẫm nghĩ: "Người ta nghèo, xin bớt 3 đ cho con ăn bánh, mà ḿnh không cho; trong khi đó ḿnh định đi buôn để kiếm vốn lên bờ tu".

Muốn tu th́ "tu ngay đi" c̣n chờ lên bờ, xuống nước ǵ nữa!

Chuyện nhỏ, chớ ḷng Bác ray rứt măi đến ngày nay đấy. Luôn luôn tự nhắc ḿnh "Hăy tu ngay hiện tại".(

 

66. TỘI CẤT ĐẦU KHÔNG LÊN

Có một  ông đạo nhỏ ra đời khuyến dạy người ta tu hành. Nhiều người đến hỏi đạo, có người hỏi:

– Làm thần nông xịt sâu có tội không?

Đạo nhỏ ấy đáp:

– Tội chứ, giết người ta làm sao mà không tội!

Một  người bán tiệm hỏi:

– Mua bán có tội không?

Ông đạo đáp:

– Mua một  đồng bán 80 xu th́ không tội.

Bác Hai nghe thuật lại chuyện ấy, Bác nói:

– Mua bán như vậy "tội cất đầu không lên", chứ sao không tội.

Ai không tin làm thử coi!!! (

 

67. SAY TH̀ CÓ TỘI

Có lần Bác dự tiệc nhà người bạn. Họ đăi mặn, có riêng một mâm chay. Đồ chay dầu nhiều, hơi khó chịu, Bác với lấy ly bia uống ít hớp. Chủ nhà mừng quá nói:

– Ừ, vậy mới thông cảm chứ!

Một  người bạn khác nói thêm:

– Uống rượu không sao, miễn đừng say thôi, nếu say là có tội, phải không anh hai?

Bác không dám ừ v́ Bác biết họ cố ư gài ḿnh tán  đồng việc uống rượu  của họ. Bác nói:

– Say! Không phải đợi chân này đá chân kia mới là say. C̣n "nhiều thứ say lắm" mà hễ "say là có tội!". (

 

68. MÂU THUẪN

Một  hôm có đệ (cư sĩ) đi Cái Dầu mua đồ, c̣n ít tiền lẻ vừa đủ về xe. Có ông lăo tới xin, đệ không cho, mặc dù vẫn c̣n tiền lớn v́ nghĩ  ḿnh đă từng cho ông lăo này hoài, để khi khác cho cũng được.

Đến bến xe gặp người quen bán sinh tố, anh mừng rỡ kéo lại đăi một ly nước. Hai người hàn huyên một  lúc, đệ móc tiền ra trả, người bạn lại cố từ chối. Dằn co một hồi đệ đành cất tiền, cám ơn và giă từ.

Lên xe về, đệ tự nghĩ ở đời có những cái ngồ ngộ, kẻ nài xin th́ không cho, người không nhận lại ép lấy.

Nghe thuật lại Bác  nói:

– Ừ! Ḿnh phải suy nghĩ để hiểu được lẽ phải mà ứng xử. Đời là trường học lớn mà.

Bác không nói việc đó phải làm sao, mà chỉ hoan nghênh việc chiêm nghiệm, xét lại từng sự việc trong cuộc sống để tiến bộ thôi. (

 

69. ĂN  NGỌ

Một ông bạn đến thăm Bác Sáu. Ông ấy ca ngợi hạnh ăn ngọ, ông cho ăn ngọ là tiết kiệm lương thực. V́ mấy năm mới ḥa b́nh lương thực khan hiếm lắm!

Bác Sáu nói:

– Nếu ḿnh sống không lợi ích ǵ cho ai, năm bảy ngày ăn một bữa cũng hoang phí rồi, nếu ḿnh sống có lợi ích, ăn một ngày 7–8 bữa cũng không hoang phí nữa. Cũng như cái máy, nếu nó bơm nước... một  ngày đốt 7 -8 lít xăng, đâu có hoang phí ǵ. C̣n để nằm không, một  tuần lễ rịn mất một xị cũng là uổng rồi!

Thế nên phải nhắm vào sự hữu dụng, chứ không nên nh́n vào số lượng tiêu phí mà xét đoán lợi hại. (

 

70. KÍCH THÍCH TỐ

Có cháu cư sĩ hỏi:

– Có khi ḿnh nằm chiêm bao thấy Phật, thấy Đức Thầy, vậy là sao, hở Bác?

Bác nói:

– Vậy là mằm mộng chứ sao!

Nó có vẻ thất vọng nói:

– Đành là mộng, nhưng mỗi lần chiêm bao gặp Phật, gặp Thầy con thấy vui lắm, tinh tấn tu hành nữa.

Bác nói:

– Th́ đương nhiên rồi, gặp mộng lành, ḷng phấn tấn tu hành là tự nhiên, nhưng mà kích thích tố thiếu ǵ thứ. Miên vác chà gạc rượt, ḿnh cũng niệm Phật thắng tới vậy! (Ư Bác muốn nói, có nhiều hoàn cảnh thúc đẩy, sách tấn ḿnh tu hành; đâu đợi chiêm bao, mộng mị này nọ mới tinh tấn).

Bác không đồng t́nh với việc mộng mị đó nên nói:

– Kích thích tố dùng nhiều không tốt, chỉ khi nào suy nhược lắm mới cần đến nó với một phân lượng vừa phải và thời gian nào đó thôi. Như dùng thuốc lợi tiểu hoài th́ hại thận, dùng trợ tim hoài th́ hại tỳ.

Thế rồi, sau này nó khùng, khùng rất nặng! Sự việc xảy ra Bác không ân hận, v́ ḿnh không tán đồng, không vùa thêm chuyện đó, trái lại c̣n cảnh giác nó nữa.

Vậy mà không khỏi, âu cũng là định mệnh! (

 

71. SAO C̉N THƯƠNG GHÉT ?

Có người hỏi Bác:

– Đức Thầy là Phật sao c̣n thương ghét?

– Thương cái ǵ, ghét cái ǵ? Bác hỏi lại.

– Đức Thầy nói: "Ghét những đứa có ăn bỏn xẻn" đó!  Người ấy nói.

Bác đáp:

– Thứ đó làm sao mà thương được!

– C̣n thương nữa: "Thương những người đói rách lương hiền". Họ hỏi tiếp.

Bác nói:

– Chèn ơi! Người đói rách mà c̣n giữ được lương hiền, ḿnh không thương th́ thương ai?(

 

72. ĐỀU LÀ TẶNG PHẨM

Có một cô và một cậu cư sĩ đă phát nguyện sống độc thân tự kết hôn với nhau. Cha mẹ đôi bên không nh́n nhận. Đồng đạo chẳng ai ngó ngàng đến, kể như là người sa đọa và làm lem ố danh dự chung của giới cư sĩ. Nên các bậc huynh trưởng nhất định trừng phạt, chứ không giúp đỡ, hầu làm gương cho kẻ khác.

Bác Hai thấy hai người ấy nguy khốn quá, nên có giúp chút ít. Thấy thế mấy cháu thân với Bác cũng giúp theo. V́ vậy họ bị mấy cô chú chủ trương trừng phạt đó rầy trách, cho rằng giúp như vậy là vô t́nh ḿnh khuyến khích người tu sa đọa. Mấy cháu nó trách lại mấy huynh trưởng đó tu hành ǵ mà khó quá!

Bác Hai khuyên can mấy cháu:

– Không nên trách lại mấy cô, mấy chú như vậy! Trừng phạt để cho nó tởn mà cải hối! Giúp đỡ để cảm hóa nhau. Cái nào cũng là tặng phẩm cả. Ai có phẩm vật nào th́ cho cái nấy. (

 

73. GIỌT LỆ CHIA TAY

Bác Hai và bạn đi đám tang ông xă. Trước khi ra về, người bạn Bác ngỏ lời chia buồn!

Thím xă khóc sướt mướt, ông bạn ấy khuyên:

– Chú xă biết tu hiền, chay lạt thế nào cũng được về cơi Phật, quả vị đó không mất đâu. Thím yên tâm, rángg lo tu hành.

Đến lượt Bác đến chào, thím cũng khóc tức tưởi!

Bác nói:

– Tôi rất hoan nghinh giọt nước mắt của thím. Người bạn đường chung sống với ḿnh, chia sẻ ngọt bùi suốt cả một  đời, giờ vĩnh biệt nhau, rưới cho nhau vài giọt lệ, điều đó quí lắm! Tôi rất kính mến và cảm động trước những giọt nước mắt ấy. Nhưng tự ḿnh có đau khổ, thím nên nghĩ rộng xót thương đến những người góa phụ khác, vô phước hơn ḿnh. Người ta góa bụa nghèo khổ, phải tha phương cầu  thực! C̣n ḿnh tuy góa bụa chứ cũng ấm no.

Khi trở về nhà, Bác thuật lại với bạn:

– Tôi không khuyên thím xă ấy mạnh dạn để chống lại cái buồn khổ, c̣n ca ngợi cái khổ ấy nữa. Nhưng thím nghe lời tôi là thím hết khổ.

Anh bạn  nói:

– Nghe theo lời anh, th́ thấy ḿnh c̣n sướng hơn nhiều người rồi mà khổ cái ǵ nữa! (

 

74. CẮT ÁI LY GIA

Một  hôm, Bác đi nhờ xuồng của một cháu cư sĩ đi Ḥa Hảo. Trên đường đi, hai cậu cháu nói chuyện dài dài... Vấn đề đưa đến chỗ thắc mắc, nó nói:

– Phải ly gia cắt ái mới giải thoát được chứ cậu?

Bác nói:

– Cắt ái có nghĩa là trưởng thành, vươn lên, chứ  không phải là cắt ngang như cháu cắt bông cúng Phật mỗi ngày vậy đâu. Như hoa sen vượt lên khỏi bùn vậy, mà hễ hoa sen sắc hương càng diễm lệ bao nhiêu, th́ ngó sen nó phải bám sâu vào ḷng đất bấy nhiêu. Như cây, hễ hoa trái thạnh mậu chừng nào th́ rễ bám sâu vào ḷng đất chừng ấy. Con người cũng vậy, phải bám vào gia đ́nh và xă hội này mà thăng hoa.

Cháu nó không căi nhưng không hài ḷng mấy!(

 

75. DIỆT TÁNH THAM

Cũng cháu cư sĩ kia hỏi:

– Cậu hai à! Làm sao diệt được tánh tham?

Biết cô thừa hiểu nhưng muốn trắc nghiệm lại xem có ǵ mới lạ hơn không, Bác nói:

– Tánh tham diệt làm sao được! Ḿnh tu c̣n tham tổ hơn  người ta mà diệt tánh tham ǵ được!

– Ḿnh tu mà tham cái ǵ đâu, cậu?

– Người ta không tu th́ chỉ tham danh lợi, t́nh... ở cơi trần này thôi. C̣n ḿnh chê là nhỏ nhen, mau tan, mau ră, lại muốn cái ǵ vĩnh viễn trường tồn, bất sinh, bất diệt mới chịu. Vậy là tham hơn người ta rồi, làm sao mà diệt được! Có môn làm cho nó lớn thêm lên.

Cô nói:

– Ngặt ḿnh không chịu tham lớn, mà chỉ ưa tham nhỏ thôi th́ làm sao?

Bác nói:

– Phải rángg mà trưởng thành, trưởng thành tới đâu th́ tánh tham lớn theo tới đó.

Ví dụ: Hồi nhỏ ḿnh thích chơi búp bê, nhà cḥi..., ai đụng tới là tóe lửa à! Rồi lớn lên, tự nhiên ḿnh bỏ và lại muốn xe hơi, nhà lầu, ghế Bộ Trưởng... lớn hơn nữa như Tổ, Phật lại muốn thế giới là vàng ṛng và mọi người đều là Bồ Tát cả!

Ḿnh trưởng thành tới đâu th́ tánh tham lớn theo tới đó, chứ diệt nó không được đâu.

Thế là thêm một  lần nữa, cháu nó không phản đối nhưng lại cũng chẳng mấy hài ḷng. (

 

76. TỘI  DO TÁC Ư

Có cô giáo hỏi:

– Dạy học, đánh  học tṛ có tội không?

Bác nói:

– Hồi ở chùa Từ  Quang, có mấy cây xoài, tụi nhỏ hay lén thọc phá. Hễ Bác gặp là rượt la, làm dữ  lắm! Mà hễ nghe trong ḷng nổi nóng là thôi ngay.

Cô giáo hỏi:

– Tại sao vậy?

– Ḿnh nóng lên là có rượt có la, c̣n hồi năy tuy rượt, tuy la chứ  không có rượt la.

Trong Pháp Bảo Đàn nói:"Tối ngày làm đủ các việc mà chẳng có chỗ làm" là vậy đó.

Có đứa cháu chạy honda ôm. Vợ chồng nó có một  thằng con thôi; mà thằng bé cũng quậy phá lắm!

Một hôm, nó quấy rầy ǵ đó, ba nó bắt cúi xuống, lấy roi ra xong, bỗng bảo:

– Thôi đi chơi đi!

Thằng bé mừng quá bỏ chạy. Vợ nó nói:

– Sao anh không đánh nó vài roi, cho nó chừa, c̣n bảo nó đi chơi nữa!

– Giận quá nên không đánh!

Xử sự như vậy là đẹp lắm chứ! V́ quá giận th́ đ̣n sẽ phản tác dụng, nó trở thành đ̣n thù, chứ chẳng phải răn dạy nữa. Và vô t́nh làm cho trẻ con tập nhiễm tính nóng giận, dữ dằn của ḿnh nữa. (

 

77. GẦN MỰC TH̀  ĐEN

Một  cô dạy mẫu giáo đến hỏi Bác:

– Mấy chị cư sĩ dạy con: "Ḿnh tu, đừng nên gần những người tu giải đăi, những người kém đạo đức hoặc không tu. V́ "gần mực th́ đen, gần đèn th́ sáng". Chỉ nên gần gũi những người tinh tấn, v́ họ có thể trợ duyên cho ḿnh tu tiến. Mấy chị dạy con như vậy Bác thấy sao?

Bác cười nói:

– Hay! "Rằng hay th́ thật là hay,

Nghe qua ngậm đắng trêu cay thế nào!"

 (Kiều)

Nghĩ như vậy th́ người đạo cao đức cả, ai mới chịu gần gũi với ḿnh đây! (

 

78. TRỜI SANH KHÔNG CÓ DƯ

Một hôm, Bác Hai nói chuyện với Bác Sáu, bạn thân của Bác:

– Trời sanh không có ǵ dư! Anh Sáu! Cả tánh xấu, anh cũng khỏi bỏ nữa, miễn anh xài đúng chỗ th́ tánh xấu cũng tốt.

Bác Sáu rất sáng ư, liền nhận ngay:

– Đúng rồi! Hồi hôm tôi xem tivi chuyện "Bên cầu dệt lụa" tức "Trần Minh khố chuối". Lúc Trần Minh đậu trạng, vua muốn gả công chúa cho, nên bảo một vị thượng quan điều tra lư lịch Trần Minh. Vị thượng quan này kêu hai người thí sinh đồng hương với Trần Minh để điều tra gián tiếp. Hai người này thi rớt và rất ghét Trần Minh, nghe quan hỏi về Trần Minh, chúng nó liền bêu xấu:

– Bẩm thượng quan! Thằng Trần Minh xấu lắm! Xài không được đâu! Nó nói láo dữ lắm, mẹ nó mà nó c̣n dám nói láo nữa!

– Nó nói láo làm sao với mẹ?

– Bẩm! Con biết rơ, bữa đó nó chưa ăn cơm. Nó xin được một bát cơm đem về cho mẹ, mẹ nó hỏi:

Con ăn cơm chưa? Vậy mà nó dám nói "ăn rồi"  đó thượng quan!

Thuật đến đây Bác Sáu cười nói:

– Tôi thích tác giả đặt đoạn đó lắm!

Bác Hai tiếp lời:

– Nói láo là một trọng giới trong nhà Phật, là một tính xấu ngoài xă hội nhưng Trần Minh không xấu, không phạm giới. Trái lại ai cũng kính nể, thán phục lời nói dối đó.

Thế nên không tính nào xấu hay tốt cả.

Dùng đúng chỗ th́ tính xấu cũng tốt, ngược lại, xài không đúng chỗ, tính tốt cũng thành xấu!

Như đức "khoan dung" là đức tánh tốt tuyệt vời, nhưng khoan ra (thứ người) mới quư; c̣n khoan vô (thứ ḿnh) th́ tệ hại vô cùng!

"Thứ người nghĩa nọ rộng lan,

Thứ ḿnh tội lỗi ngày càng thêm cao". (TS)

C̣n cái tánh "vạch lá t́m xâu" moi móc lỗi lầm của thiên hạ, là tính rất xấu, tính tiểu nhơn. Nhưng ngược lại, moi móc xét nét lỗi lầm của chính ḿnh là quân tử. (

 

79. ĐẠI BỒ TÁT ĐỘ

Một hôm Bác ghé thăm quư đồng đạo ở chùa B́nh Minh. Bác thuật lại chuyện một người bạn, bị giam ở trong tù. Ông ấy kể:

– Cứ mỗi ngày tới ngày thăm nuôi th́ tên "tù chúa" kiểm xoát từng giỏ xách đồ ăn. Giỏ nào có đồ ngon (gà quay, thị kh́a...) th́ hắn lấy chia nhau ăn. C̣n đồ chay hắn chừa lại, mà c̣n cấm đàn em không được đụng đến đồ chay của người ta.

Từ đó người bạn Bác viết thư về bảo người nhà gửi đồ chay cho ông, đồng thời ông phát tâm tu luôn.

Chuyện đến đây Bác liên tưởng đến chuyến đi tàu Chợ Mới – Long Xuyên.

Khi tàu đi ngang trạm Cà Mau (Ông chưởng) bị lính gọi lại xét và bắt 10 giạ cám (thời cấm lưu thông lúa gạo). Hàng không đem lên, cô chủ cám cứ đi theo năn nỉ măi. Cuối cùng thấy không đáng ǵ nên lính cho đi. Lúc này trời sáng hẳn, cô chủ cám xuống hầm gặp Bác, vừa mừng vừa nói:

– Chú hai ơi! Con niệm Quan Thế Âm hết biết!

Tàu chạy đi, Bác suy nghĩ, cười một ḿnh. Lúc xưa, Ban Hoằng Pháp của Giáo hội khuyên người ta tu niệm, chưa chắc ǵ người ta niệm tha thiết bằng tụi này nó làm khó.

Bác kết luận:"Bồ Tát làm Phật sự, Quỷ Vương cũng làm Phật sự vậy".

Mấy cháu ở chùa nói:

– Bồ Tát làm Phật sự người ta thương. quỷ vương làm Phật sự người ta ghét.

Bác nói:

– Bởi vậy Đại Bồ Tát mới dám làm quỷ vương, chứ Tiểu Bồ Tát không dám làm quỷ vương đâu!

Từ đó nơi chùa B́nh Minh có câu thành ngữ:  "Đại Bồ Tát độ!". Ai tu hành lôi thôi các bạn hay nhắc khéo:

– Chắc chờ Đại Bồ Tát độ quá!(

 

80. NHƯ CỦA CHO THÊM

Có cháu hỏi:

– Bác Hai già yếu, cô thân, bệnh hoạn, nghèo túng vậy Bác có thấy buồn không?

Bác đáp:

– Có lần Bác mua khoai, người bán cân rồi c̣n lại vài củ họ bảo:"Thôi cho ông luôn đó!". Những củ cho thêm này hồi năy ḿnh chê, lựa bỏ lại, thế mà bây giờ thấy nó tốt, v́ của cho thêm đâu có tính tiền.

Bác nghĩ đời sống ḿnh từ đây kề về sau kể như là Thượng Đế cho thêm, nên dù nó có đen tối, èo ọt ǵ cũng quư. Bác tự an ủi thế và cám ơn thượng đế.

Hồi c̣n trẻ, mỗi ngày qua, Bác thấy tiếc nuối v́ đă chết đi hết một ngày; bây giờ già rồi ngược lại, mỗi lần trong bóng hoàng hôn buông xuống, Bác mừng tự nhủ: "Vậy là ḿnh sống thêm được một ngày nữa!". (

 

81. HAI LỐI SỐNG

Một hôm ông Jorba, gặp một ông lăo trồng cây hồ đào (loại cây lâu năm), ông ta hỏi:

– Nội ơi! Nội năm nay bao nhiêu tuổi rồi?

Cụ già ngẩng đầu lên cười đáp:

– Lăo sống như không bao giờ chết.

– C̣n tôi sống như sắp chết đến nơi vậy. Jorba nói.

Hai lối sống kể trên đều tuyệt vời cả. Ở phương diện nào đó ḿnh phải sống như không bao giờ chết; và ở một  mặt khác, ḿnh phải biết sống như sắp chết đến nơi vậy. (

 

82. SẴN  SÀNG

Có lần Bác đi thăm người bạn, ngày về là lúc trời băo nhưng ḿnh có vấn đề phải về thôi.

Mấy người bạn cầm nán lại nhưng Bác quyết đi, dù mưa cũng đi.

Bác dẫn xe đạp ra về, nhưng may, ngày hôm ấy về đến nhà không bị mưa. Tắm xong lên giường nằm, Bác nghĩ lại hôm nay ḿnh đi dưới trời mưa gió mà ḷng b́nh an như ngày đẹp trời vậy bởi ḿnh sẵn sàng chấp nhận.

Bác suy rộng ra, nếu đối với  mưa gió của đời ḿnh, mà ḿnh có tâm trạng sẵn sàng như vậy, chắc là sống yên lành, hạnh phúc lắm. (

 

83. THIẾU CHỨNG MINH

Có một cô bán thuốc tây ở Cái Dầu, trường trai tu hành hơn ba mươi năm nay, gặp Bác, cô than văn:

– Cháu c̣n chút ray rứt là mấy đứa con của cháu nó cũng hiền lành ăn tương vậy, nhưng nó ham chưng dọn theo đời lắm, nói nó không chịu nghe theo. Không biết làm sao khuyên cho nó nghe vậy chú!

Bác đáp:

– Nó không nghe là phải đó! Con đường ḿnh đi suốt ba mươi năm mà chưa thể hiện được ǵ cho bản thân cả! Bây giờ bảo nó theo ḿnh, nếu nó nghe theo là nó mù quáng, không biết suy xét.

– Vậy tại ḿnh  thiếu đức hả chú?

– Không, tu hiền chay lạt đâu có thiếu đức, tại ḿnh thiếu chứng minh cho nó thấy "tu là hạnh phúc" đó thôi. Nếu chứng minh được trên thực tế tu là hạnh phúc, th́ cô cấm nó tu, nó cũng lén cô mà tu nữa, cô không chỉ dạy, nó cũng ŕnh xem cô tu làm sao đặng bắt chước.

Cô ấy gật gật đầu:

– À! Có lẽ vậy. (

 

84. TÔN GIÁO - KHÔNG PHẢI VẤN ĐỀ

Một hôm, bác Hai gặp lại anh bạn trước kia là người trong đạo. Sau ngày giải phóng, xét gia đ́nh anh có thân nhân, hay công trận  ǵ đó với Cách Mạng nên anh được cất nhắc làm cán bộ địa phương.

Qua lời chào thân mật và đổi trao vài câu xă  giao, anh ấy định kiếu từ v́ đang bận công tác. Chợt nhớ điều ǵ, anh nán lại hỏi Bác:

– Tôi có thắc mắc này, anh em tôi hỏi thiệt anh nhé!

Bác nói:

– Cái ǵ mà rào đón giữ vậy, hỏi th́ cứ hỏi. Biết th́ tôi nói, không th́ thôi, có ǵ đâu.

Anh ấy hỏi:

– Theo anh thấy, giữa vô thần và hữu thần, ngày chung cuộc ra sao? Chỗ này là t́nh anh em, tôi hỏi thật, chứ không phải cán bộ hỏi đâu nhé!

Bác cười nói:

– Cách nay mười hôm, tôi có việc  đi qua Nhơn Mỹ. Có một cô nhờ tôi giúp ư kiến giải quyết một  vấn đề khó xử. Cô nói:

– Tôi theo đạo Cao Đài, ông nhà theo đạo Ḥa Hảo. Từ khi có chồng đến giờ, nếu ở bên này th́ ăn chay, cúng lạy, đọc bài nguyện theo Ḥa Hảo; hễ về bên ngoại mấy nhỏ th́ tôi ăn chay cúng lạy đọc kinh theo Cao Đài. Gần đây có mấy anh em trong đạo biết chuyện đó nên khuyên tôi: "Theo bên nào một  bên thôi, đi hàng hai như vậy nữa không ai nh́n nhận  hết là hỏng đấy!" Nghe như vậy tôi hoang mang, phân vân không biết nên bỏ bên nào, theo bên nào! Vậy anh giúp giùm ư kiến.

Tôi nói với cô ấy:

– Theo ư riêng của tôi th́ "Tôn giáo không thành vấn đề". Vấn đề là t́nh người với nhau, ở ăn cho có nhân hậu, thủy chung. Vấn đề là nhân quả, gieo nhân nào hưởng quả nấy, chứ tôn giáo không quan trọng lắn đâu. Nếu cô theo đạo Phật mà cô làm hung, rồi Phật  bênh cô sao?

Đức Thầy có dạy: "...Đừng ỷ lại vào sự cứu vớt của Thần Thánh, đừng ỷ sự bênh vực của Thầy ḿnh. Luôn luôn  lúc nào cũng nhớ câu Nhơn Quả của Phật dạy, nếu Nhơn toàn thiện th́ Quả cũng sẽ do đó được toàn thiện vậy".

"...Liên hoa có thiện được lên,

Dù người ấy chẳng mang tên đạo ǵ.

 

Mang tên đạo mà đi làm dữ,

Thua người lành chẳng ở phái chi...".

          (TS)

 Tóm lại, tôn giáo này, tôn giáo kia, hữu thần, vô thần không thành vấn đề, mà vấn đề là "gieo nhân nào hưởng quả nấy".

Đến đây Bác nh́n người bạn cán bộ và nói:

– Tôi thuật chuyện này để trả lời luôn câu hỏi của anh đấy.

Cuộc trao đổi chấm dứt. Ông bạn ấy có vẻ hài ḷng lắm. (

 

85. GẶP PHẬT BAN NGÀY

Có mấy cháu nữ sinh mến Bác lắm. Hôm đó mấy cháu lựa đậu nành, Bác nằm vơng bên  cạnh.

Mấy cháu hỏi:

– Bác Hai ơi! Có lần nào Bác nằm chiêm bao gặp Phật hôn?

– Không, Bác trả lời – Nhưng ban ngày Bác gặp Phật hoài hà.

– Tụi con hỏi thiệt mà!

– Ừ! Ban ngày là Phật thiệt đó! C̣n chiêm bao là Phật nhăn thuốc à!

– Vậy, Bác Hai gặp Phật ra sao?

– Phật hiện ra đủ hạng người hết: Già, trẻ, trai, gái... À,  có hóa ra gái model uốn tóc nữa.

– Thế làm sao  biết là Phật?

– Biết chứ, người nào Phật hóa ra đều làm việc chơn chánh, nhơn từ, có lợi ích cho đời. Bên cạnh đó Bác cũng gặp Ma Quỷ, cũng hóa ra đủ hạng người trên, mà những người Ma, Quỷ hóa ra th́ làm những việc xấu xa tội lỗi.

Mấy cháu cười:

– Tụi con cũng gặp Phật nữa, Phật ngồi vơng, tay cầm cây quạt mo.

– Vậy là ông Địa rồi! (

 

86. Y KINH GIẢI NGHĨA

Một hôm trong đám cầu nguyện ở nhà người quen, có đứa cháu hỏi:

Chú giải thích giùm con câu:

"Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan

Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết"

Bác nói:

– Cháu biết lái ghe không?

– Dạ biết chút đỉnh.

– Vậy nghe chú thí dụ: Chú lái ghe từ  Ḥa Hảo lên Châu Đốc. Thấy vậy, cháu nhờ chú dạy lái ghe đi Châu Đốc. Chú đồng  ư.

Bắt đầu mở dây, xô ghe ra, quay máy, bẻ tay lái qua, lại; cháu ghi nhận từng động tác một  cách tỉ mỉ cho đến khi tới Châu Đốc.

Bấy giờ, cháu trở về Ḥa Hảo, xuống ghe, mở dây, xô ra rồi quay máy. Với bài bản được lập lại một  cách chính xác, mà nhứt định không đến Châu Đốc được, nó sẽ trôi tấp ở đâu á!!!

Muốn đến Châu Đốc th́ phải biết cách lái ghe, biết đường nào đến Châu Đốc, rồi tùy lúc, có thể  làm y như  lúc học hay khi cần có thể làm ngược lại cũng đúng.

Tóm lại, biết tại sao phải bẻ qua, bẻ lại như vậy, th́ làm y cũng đúng mà làm ngược lại cũng không sai.

– Vậy là phải biết tại sao hở chú?

– Ừ! Nếu không biết tại sao  th́ bắt trước y hệt cũng trật, mà ngược lại càng trật hơn! (

 

87. HỎI LẠI L̉NG M̀NH

Có đứa cháu hỏi Bác:

– Có phương pháp nào bỏ sắc dục được không? Con nặng về sắc dục quá!

Bác hỏi:

– Bộ muốn bỏ sao?

– Muốn lắm mà bỏ không được!

– Đừng hỏi phương pháp mà hỏi lại ḷng ḿnh xem, có muốn bỏ thiệt hôn?

Hễ nếu thiệt muốn bỏ th́ nó rớt ngay.

Bác với lấy cái ly nói:

– Cũng như ḿnh cầm cái ly, muốn bỏ th́ nó liền rớt, chứ khỏi hỏi phương pháp buông ra làm sao, buông ngón nào trước, ngón nào sau.

Hăy hỏi lại ḷng ḿnh xem, có muốn buông không? Nếu không muốn buông, dù người ta gở tay liệng đi, ḿnh cũng lượm lại. (

 

 

 

88. ĂN  Ư

Có cháu cư sĩ hỏi:

– Con bị vọng tâm quá; con niệm Phật liền hết, ít lâu sau  niệm mặc niệm c̣n vọng cứ vọng. Con quay sang quán xét, thấy có hiệu quả, nhưng dần dần quán mặc quán, vọng vẫn vọng!

Bây giờ Bác có phương pháp nào nữa không, chỉ cho con trị cái vọng tâm?

Bác nói:

– Thôi! bao nhiêu đó xài không hết rồi chỉ thêm cái ǵ nữa. Có điều cháu cứ hạ thủ như  vậy đi, tuy nó trật vuột vậy chớ nó sẽ có ư.

Nhớ hồi nhỏ, có lần Bác về quê ở nhà ông Dượng nghỉ hè. Ông chuyên nghề đóng ghe. Bác thích xem ông làm mộc, nhất là bào cây, trong ḷng muốn thử bào nhưng không dám.

Một hôm ông ra vóc một  cây chèo, tra lưỡi bào xong, bảo:

– Sanh! Mày chuốt cây chèo này coi.

Bác mừng lắm nhưng hơi sợ, hỏi vặn lại:

– Rủi hư làm sao Dượng?

– Không hư đâu, nó có vóc sẵn rồi, mày bào láng lại là được; mà có tao đây, đâu để mày làm hư sao mà sợ.

Bác đẩy bào trớt lớt mấy lần, Bác hỏi:

– Dượng Bảy dạy con coi, sao bào nó không ăn.

Ông nói:

– Dạy cái ǵ được! Đẩy đi rồi nó ăn ư.

Thật vậy, một lát sau Bác bào được.

Mấy thằng bạn của nó cười rộ lên, rồi day sang Bác nói:

– Thằng hỏi đó là thợ mộc đó Bác.

– Ồ!Vậy càng hay. Bác nói. (

 

89. NIỆM PHẬT THA THIẾT

Có chú cư sĩ chuyên về pháp môn niệm Phật. Chú tối kỵ chữ "ái" dù là t́nh quyến thuộc cũng vậy.   Chú khuyên em cháu phải dẹp bỏ t́nh luyến ái.

Một  hôm, chú ghé thăm Bác và nói:

– Nhờ anh giúp đỡ giùm tôi một chuyện, là ḿnh làm sao niệm Phật cho được tha thiết đây?

Bác biết ư chú, nên nói:

– Theo ư tôi, muốn niệm Phật thiết tha th́ phải tăng trưởng t́nh thương!

Chú trân trối nh́n Bác, ngầm ư hỏi v́ sao?

Bác thí dụ:

– Như ḿnh có người thân: cha, mẹ, anh, em, chồng, vợ, ǵ đó... rất thương mến, đang lâm trọng bệnh hấp hối, ḿnh niệm Phật cầu gia hộ. T́nh thương giữa ḿnh và người thân ấy tha thiết bao nhiêu, th́ sự niệm Phật của ḿnh cũng tha thiết bấy nhiêu.

Không phản đối, nhưng Bác biết chú không hài ḷng.

Sau, Bác đem chuyện trên kể lại cho vài đứa cháu nghe, có một  cháu xác nhận:

– Bác Hai nói con rất công nhận. Lần đó mẹ con mất, con hộ niệm; v́ thương mẹ quá, nên con niệm Phật vô cùng thiết tha!

Từ đó đến nay, ít có lần nào niệm Phật thiết tha được như vậy. (

 

90. TRUNG  ĐẠO

Một lần Bác đi dự lễ giỗ, cúng xong định về liền, đi ngang bàn nọ có mấy cháu kéo lại mời Bác uống nước với tụi nó. Kẹt quá Bác phải ngồi lại.

Mấy cháu hỏi:

– Thầy nói: "Thắng thất t́nh giữ vẹn đạo trung". Mà sao giữ vẹn "đạo trung", hả Bác?

Bác nói:

– Trung đạo là con đường quan trọng, con đường đưa đến giải thoát, nhưng có điều nó không phải là con đường tiền chế, đă vạch sẵn, mà mỗi người phải tự vạch lấy, tự thắp đuốc lên mà đi. Trung đạo có nghĩ là vừa phải, mà cái vừa phải của người này không phải là cái vừa phải của người kia. Cũng như ăn cơm, Bác dùng một bát thấy vừa, c̣n mấy cháu ăn bốn năm bát mới vừa.

Thế là cái vừa phải, không phải là cái lập thành, nó tùy theo mỗi người. Lại nữa, cái vừa phải của chính ḿnh ngày hôm nay, cũng không phải là cái vừa phải của chính ḿnh ngày mai nữa. Nếu ngày mai ḿnh bị cảm, ăn cháo mới vừa, chứ không c̣n ăn bốn năm bát cơm được. Nên cái vừa phải, phải lấy trí tuệ ra mà liều lượng.

Đức Phật sau khi thuyết pháp mấy mươi năm, Ngài nói: "Các ngươi hăy tự thắp đuốc lên mà đi" là vậy đó.

Có một cháu nhận được ư nghĩa đó nên nói:

Như vậy th́ trung đạo có thể dời đổi, chứ không phải là con đường cứng ngắc, cũng như ḿnh đi trên ḍng sông, phải uốn khúc, quanh co theo ḍng sông, nhưng mà phải giữ giữa hai bờ.

Bác nói:

– Không phải, trung đạo có thể lệch một bên được.

Nó ngạc nhiên:

– Vậy là con chưa hiểu!

– Để Bác giải thích một  lần nữa:

 "Trung đạo có nghĩa là quân b́nh", cho nên cháu chia cây mía ra làm hai mà chặt ngay giữa th́  không ai thèm lấy khúc ngọn đâu.  Nên muốn cho nó quân b́nh phải chặt khúc gốc ngắn, khúc ngọn dài.

Tùy ở thể tích, trong lượng hay phẩm chất mà sự phân chia có thể lệch một bên, để giữ thế quân b́nh (Trung đạo).

Giải tới đó, Bác chợt nhớ lại câu kinh:

"Không phải ở giữa, mà cũng không phải ở hai bên, đó là trung đạo". (Pháp Bảo Đàn)

Câu kinh này lúc xưa Bác mù tịt, nay tự dưng lại hiểu ra. (

 

91. QUA MỘT CƠN ĐAU

Chú ba, một  người  em bạn của Bác bị đau bụng nhào lăn! Lối xóm kẻ cạo gió, người kiếm thuốc lăng xăng, một  lúc sau bệnh mới chịu bớt.

Sau trận đau đó, mấy người con của chú nói:

– Qua cơn đau của ba, tụi con thấy t́nh cḥm xóm xích lại gần hơn.

Chú ba tiếp lời:

– C̣n ba, thấy mang ơn tới cây cỏ nữa!

Bác Hai nghe cha con nó nói vậy, Bác cười nói:

– C̣n tôi, tôi mang ơn cái thân xác này lắm.

Đồng đạo nghe qua câu chuyện đó phê b́nh:

Qua cơn đau, mấy đứa con chú ba tiến xa, chú ba th́ kém hơn tụi nó, c̣n ông Như Sanh th́ ích kỷ quá!

Một người bạn Bác Hai nghe phê b́nh như vậy, nói:

– Qua cơn đau đó, mấy đứa con chú ba tiến một bước, chú ba tiến hơn con của chú, c̣n anh (Bác Hai) tiến hơn cha con nó nữa.

Kẻ khen qua, người chê lại, Bác chỉ cười vậy thôi.

Về sau, mấy em cháu nhờ giải rơ ư câu nói: "Bác mang ơn cái thân này lắm!"

Bác nói:

– Phật dạy cái thân này là nhà chứa tai họa, nào đau ốm, nạn tai... biết bao! Đó là một lối nói, chứ nhà Phật bảo: "Thân  mạng không nên quí trọng mà cũng không nên khinh". V́ nều quí trọng sẽ phải tạo nghiệp bất lành  để phụng sự nó, mà rốt cuộc rồi cũng phải bỏ. Nhưng không nên khinh nó, v́ nhờ thân mà học được đạo, cúng dường lễ Phật, nhờ thân mà hoàn thiện được con người làm nên việc nghĩa để tiến lên địa vị Tiên, Phật. V́ thế không nên nh́n thiên lệch, cho thân là bất tịnh, tai họa... rồi xem nó như kẻ thù!

Nếu ḿnh nh́n thân như kẻ thù, th́ người chia xương, xẻ huyết, sinh sản nuôi nấng nó, bấy giờ ḿnh mới xem họ ra sao đây? Vô ơn bạc nghĩa chăng?

Ḿnh có quư trọng thân ḿnh, mới có quư trọng công ơn sinh dưỡng của cha mẹ.

Trở lại, v́ có quư thân cha, nên đám con chú ba mới thấy thông cảm t́nh cḥm xóm và chú ba mới mang ơn tới cây cỏ vậy. (

 

92. ĐỔI MẠNG

Hồi Pháp trở lại lần thứ hai, khoảng 1947-48 ǵ đó, đồn bót đóng khắp nơi. Sinh mạng người dân thời loạn rẻ rề!

Một đêm kia, Bác nằm mộng đi ngang đồn thấy lính dẫn năm người ra xử tử (3 đàn ông, 1 đàn bà và 1 trẻ em). Nh́n thấy Bác, tên lính đồn trưởng kêu:

Đổi mạng không?

Bác lắc đầu. Nó mặc cả:

– Một mạng đổi hai nè!

Bác cũng lắc đầu. Nó tăng thêm:

– Thôi, một mạng đổi năm đó!

Bác liền gật đầu, đi vào ngồi dưới cột cờ chờ nó bắn. Tên đồn trưởng lại chớ trêu ra điều kiện:

– "Mỗi người phải mắng ông này một câu mới về".

Mấy người đàn ông lấp bấp chưởi coi bộ gượng gạo lắm. Đến lượt người đàn bà, bà ta xỉ xỏ chưởi mắng Bác thậm tệ như oán hận đâu đời nào. Ơn cứu tử c̣n ràng ràng mà ḷng người sao chóng phôi pha! Bác tức cười cho t́nh đời sao quá ư đen bạc, tiếng cười làm Bác thức giấc.

Ḷng hân hoan sung sướng vô cùng, nhớ lại việc đổi mạng cho năm người, ḿnh chỉ thấy vậy là lời, nên xem cái chết rất nhẹ. Ngồi giữa pháp trường mà như ngồi ngắm hoa cảnh giữa công viên, không chút sợ sệt. Không nghĩ mạng đem đổi là mạng ḿnh và năm mạng được cứu sống là mạng của người khác; giữa ḿnh và người không phân chia, cách biệt. Đặc biệt hơn nữa là ḿnh không hy sinh làm phước, không hồi hướng ǵ cả, mà chỉ thấy đổi như thế là quá lời đi thôi.

Trong giây phút mộng mị ấy ḿnh đă vượt khỏi tử sanh; sống chết không phải vấn đề nữa, và thấm thía được câu:

"Nhân ngă, ngă nhân đừng cách biệt

Sắc không, không sắc chớ ĺa xa" (SG)

Bây giờ, ḿnh đă thức hẳn, công phu cũng khá dăi dầu, nhưng hỡi ôi!

"Giận bấy thân sao không bằng mộng!"

Mong các em các cháu đừng lấy cái đầu mà suy tư chuyện đổi mạng này, hăy nhường lại cho quả tim. (

 

93. TÂM CHAY

Có mấy anh em đang bàn bạc về chuyện ăn chay, câu chuyện sắp tàn, Bác nhắc:

– Hồi tôi mới ăn chay, lâu lâu hay nằm chiêm bao thấy ăn mặn. Khổ nỗi là lần nào cũng lỡ ăn rồi mới sực nhớ là ḿnh ăn chay; như vậy công phu chay lạt bấy lâu tiêu rồi! Buồn tức, sao không nhớ sơm sớm. Khi giựt ḿnh thức giấc, biết là chiêm bao chứ ḿnh không có ăn mặn, ḷng mừng vô cùng. Cứ lâu lâu lại mộng thấy ăn mặn một lần.

Bẵng đi mấy mươi năm không thấy nữa, hôm rồi (cách đây khoảng mười năm), tôi nằm mộng thấy ăn cơm vơi mắm chưng, dưa ghém ngon lắm. Tưởng đồ chay, tôi ung dung ăn, gần xong mới phát giác ra mắm mặn, nhưng ḷng không ân hận, ray rứt như thuở trước. Bây giờ ăn mà tâm ḿnh nghĩ là đồ chay thôi.

Có một điều lạ là c̣n một bát cơm nữa mới no, tôi tự nhiên bới ăn thêm mà tâm hồn vẫn an nhiên như lúc trước, dù biết rơ là mắm mặn rồi. Và khi thức dậy cũng không mừng v́ đó là mộng, chứ ḿnh không có ăn mặn.

Nghe xong, ai nấy cười rồi giải tán, có lẽ họ không mấy thông cảm. Một người bạn nán lại khen:

– Kể ra về tŕnh độ chay mặn của anh tiến xa lắm rồi đó!

Qua giấc mộng này Bác biết thêm một tâm chay khác. Xưa nay, Bác nghĩ "Tâm chay là tâm hiền lành, từ bi Bác ái."

"Tu thương người mới thật chay trường" (SG)

Nay thấy, nếu tâm ḿnh giữ được b́nh đẳng như trong giấc mộng trên, th́ ăn ǵ cũng là "ăn chay" cả. Và đồng thời nhận được việc Đức Thầy ăn chay sáu ngày, chứ thật ra ngài trường chay đấy.

Các cháu đừng động năo việc này, hăy chờ đến lúc thông cảm thôi!(

 

94. NƯỚC MẮM MẶN

Một lần nọ Bác đi đám giỗ, có đăi một mâm chay, mà nước mắm chay và mặn bây giờ rất khó phân biệt, chỉ có người làm mới biết thôi. Hôm đó, họ dọn nước mắm mặn qua mâm chay. Ăn xong, cô chủ nhà phát hiện ra sự việc, sợ tội, ḷng ray rứt nên đến thỏ thẻ với Bác:

– Hồi năy lu bu, mấy chị lỡ dọn lộn nước mắm mặn qua mâm chay, mong Bác thông cảm.

Bác điềm nhiên cười và trấn an:

– Lộn th́ lộn chứ, ở đây người ta ăn nước mắm chay, đâu có ăn nước mắm mặn mà con lo! (

 

95. ĂN CỰC

Dạo đó, Bác Hai và mấy người bạn làm rẫy ở kinh Cụ Hội. Trời mùa đông năm ấy rất lạnh. Sáng sớm, mấy Bác nấu cơm ăn dưới ghe. Có ông lăo trên 50 tuổi, đang dậm dấu ṃ cá dưới kinh. Thấy có lửa ông lội lại, ngồi nép sau lái ghe trángh gió và lấy thuốc ra hút. Vấn thuốc xong, ông với tay lấy que củi đang cháy dở trong ḷ và nói:

– Cho mồi nhờ điếu thuốc nha!

V́ lạnh quá, tay ông run run, khó khăn lắm ông mới châm được điếu thuốc. Liếc nh́n thấy mấy Bác ăn cơm với dưa leo chấm tương hột, ông nói:

– Ăn cực quá vậy?

Bác đáp:

– Ăn vậy chớ sướng hơn ông đó à!

Lời nói đúng ngay vào cảnh sống, ông ta thấm thía than: "Vợ con đùm đeo phải rángg chớ biết sao!"(

 

96. ĐĂ CÓ ĐÁP BÙ

Có lần, Bác Hai bế một em bé độ hai tuổi, nựng nịu, hôn hít giây lát rồi đưa trả cho ba nó và nói:

– Nuôi con cực nhọc, vậy chớ nó đă có đáp bù rồi đó!

Ba em bé nói nựng con:

– Lớn lên làm nuôi ba nghe con!

Bác Hai đính chính:

– Chẳng phải đợi sau này lớn lên nó báo hiếu đâu, mà ngay bây giờ nó đă bù đáp rồi.

Ba em bé vừa hôn con vừa cưới nói:

– Bác Hai khác hơn các vị cư sĩ ở chỗ đó.

 

97. CHƠI ĐẸP

Có ông cựu bí thư xă, hiền lành và có hiếu lắm. Nhưng ông không chịu thờ cúng, lễ lạy ông bà, cha mẹ v́ nghĩ  làm vậy là vô ích và mê tín.

Một hôm, ông đến thăm chơi, sẵn dịp Bác Hai mời ông ở lại dự lễ cúng cơm cho bà má Bác. Đến giờ dọn cúng, ông ra ngoài mái hiên ngồi chờ. Đám giỗ đơn sơ, độ hơn mươi người khác.

Cúng xong, Bác nói một câu chuyện mà mục đích  là muốn nói cho ông bí thư đó nghe:

– Hồi năy, tôi đứng hầu nhang cho anh em cúng, tôi sực nhớ một câu chuyện ngồ ngộ: Tôi có đứa em gái một cha khác mẹ, hiện ở Mỹ; nó có cô bạn gái người Mỹ. Năm rồi nó về Việt nam thăm quê, cô bạn mỹ đó gởi nó 20 đô la và bảo:

"Về Việt Nam, mày coi bà má thích cái ǵ, mua tặng bả giùm tao. Mày nói ta cám ơn bả, v́ bả sanh mày ra, nuôi mày lớn, bây giờ mày chơi đẹp với tao".

Cô Mỹ này thật ra chưa biết bà má của em tôi ra sao cả; tuy nhiên việc làm đó là thể hiện tấm ḷng tốt của người "ăn trái nhớ kẻ trồng cây" vậy.

Hôm nay, anh em tới đây dự lễ giỗ má tôi. Thật ra không ai biết bà ra sao cả, v́ bà mất hơn năm mươi năm rồi. Anh em đến đây cúng bà, chẳng qua v́ t́nh  thương với nhau thôi. Cúng xong ḿnh hưởng, chứ người quá cố có ăn uống ǵ!

Sáng hôm sau, anh em ngồi lại ăn bánh, uống trà, ông Bí thư ấy nói:

– Hôm qua, anh Hai nói vắn tắt, vậy chớ sâu lắm à! Nói chút vậy chớ thấm đó.

Nay th́ ông ấy chịu dâng hương cúng ông bà rồi. (

 

98. HOA TÀN MÀ LẠI THÊM TƯƠI

Đó là câu trong chuyện Kiều mà Bác Hai thắc mắc! Sao lạ, "Hoa tàn mà lại thêm tưoi"?

Một  hôm, thím Sáu (sáu Thuần  LX), người đă kể lại chuyện mua hoa tết cho Bác nghe:

– Hôm 30 tết, con đi honda chạy ngang nhà thờ, thấy có bà già đứng ôm một mớ bông. Thấy lạ, con ghé lại hỏi:

“Bà bán hay mua mà đứng đây?”

“Bán, mà không ai mua cả!” Bà nói.

“Sao bà không đem lại chợ hoa bán, để đây ai biết mà mua?”

“Lại đẳng bán ǵ được! Hoa người ta tươi tốt như rồng, c̣n của ḿnh th́ xấu hơn! Ở đây bán cầu may. Nhà có chồng ít bông để cúng nhưng tết túng tiền nhổ một mớ bán, mua đồ về cúng ông bà. Cô làm ơn mua giùm tôi đi!”

Thấy hoa kém tươi, không muốn mua nhưng muốn giúp bả nên con nói:

“Bà cần bao nhiêu tiền? Tôi giúp cho bà mua đồ về cúng.”

“Không, tôi không dám nhận tiền cô đâu. Cô mua giúp giùm tôi cám ơn lắm!”

“Thôi được, bà bó hoa lại đi. Bà định bao nhiêu tiền con trả đủ cho.”

V́ con muốn giúp cho bả, nên không trả giá ǵ cả. Thím Sáu nói thế với Bác.

Đem hoa về nhà con bảo mấy đứa nhỏ thay hoa cũ, chưng hoa mới mua.

Mấy đứa cười ngất: "Hoa cũ c̣n tươi hơn hoa của bà nữa!"

“Kệ thay đi, hoa này kém tươi nhưng mới mua.”

Bác chỉ nghe kể lại chuyện mua hoa thôi, nhưng Bác cảm thấy b́nh hoa đó vô cùng rạng rỡ. Chắc Phật trời cũng hài ḷng đẹp dạ biết bao! V́ trời Phật chỉ trọng của cải mà người ta đem giúp đỡ nhau, hơn là lễ vật đem dâng cúng cho các Ngài.

Rồi bỗng nhiên Bác cảm thông được câu: "Hoa tàn mà lại thêm tươi".(

 

99. CHƯA  CHỊU CHẾT

Có người bạn cùng tuổi với Bác, nay ông đă chết rồi! Lần đó, ông bị vỡ bao tử, đưa vào bệnh viện cấp cứu kịp.  Bác hay tin đến thăm.

Ông nói:

– Hồi đó giờ tu, mà tôi chưa phát đại nguyện. Bây giờ tôi phát đại nguyện rồi anh.

Bác không hỏi xem ông phát đại nguyện ǵ, ra sao? Mà lại nói:

– Tôi như anh, tôi khỏi phát đại nguyện, kể như hôm đó bao tử khâu không kịp, ḿnh đă chết rồi là yên.

– Ừa! Tôi cũng tính như anh vậy, miễn vợ con nó xuôi một  bề th́ thôi.

– Vậy là anh chưa chịu chết, đă chết lại c̣n miễn cái nỗi ǵ nữa! (

 

HẾT PHẦN MỘT