NHƯ SANH
NHƯ HUYỄN
sưu tập
Tôi vốn ít có thời
gian để đọc sách, v́ vậy tôi phải có cách
riêng để chọn sách đọc. Trước hết
tôi hay nh́n cái tựa sách để đoán xem nội dung sẽ
làm ḿnh thích hay không. Sau đó tôi cầm lên và lật ra một
trang bất kỳ đọc đại vài ḍng. Nếu
trong vài ḍng bất chợt đó mà tôi nhận ra được
cái độc đáo của tác giả th́ coi như cuốn
sách đó có duyên với tôi, c̣n không th́ vô duyên. Có lẽ v́
cách chọn ẩu tả vậy mà tôi đă không đọc
được rất nhiều sách có giá trị khác. Riêng cuốn
Cặn Bă Kư Ức th́ chắc có duyên nên khi đọc đại
một câu chuyện nào đó, tôi đă phải hỏi
mượn người chủ để mang về nghiền
ngẫm.
Thật vậy, những
câu chuyện ngăn ngắn trong đây lại mở ra những
đạo lư dài bất tận. Đầu tiên tôi khá ngạc
nhiên v́ biết tác giả đây là tín đồ Ḥa Hảo,
một giáo phái ở miền Tây
Chưa biết tác giả,
chỉ đọc tập sách này, chúng ta cũng h́nh dung tác
giả là một người sâu sắc, hiền lành, nghèo
nàn, độ lượng, gần gũi với mọi
người, và đặc biệt là kiến giải tu hành
rất chuẩn mực chân chính. Dĩ nhiên người tín
đồ nào cũng được thừa hưởng những
lời dạy ban đầu của vị giáo tổ,
nhưng chắc chắn là sự dụng công tu hành, sự
sáng tạo, sự phát triển là cái độc đáo riêng
của vị ấy. Khi gặp bác Như Sanh, tôi biết
ḿnh đă nhận xét đúng. Một đời tinh tấn
tu hành, xét nét nội tâm, tận tụy v́ người của
bác đă làm nên một công tŕnh giáo nghĩa sáng giá. Cuốn
sách này xuất hiện lần đầu do anh Như Huyễn
ghi lại những câu chuyện mà thỉnh thoảng bác Hai
kể cho anh nghe theo kư ức của bác. V́ vậy nó có tên là
Kư Ức. C̣n Cặn Bă là do bác Hai muốn xem đây là những
câu chuyện vu vơ lặt vặt. Thôi kệ bác!
Tôi có cảm hứng
giảng lại toàn bộ tác phẩm CBKU như là một sự
giới thiệu rất trân trọng với những
người từng có duyên nghe tôi giảng. Và quả thật,
những giáo lư trong đây hoàn toàn phù hợp với tinh thần
chung của Đạo Phật và nhanh chóng vượt khỏi
ranh giới giáo phái để được đón nhận
nồng nhiệt khắp nơi.
Những câu chuyện
b́nh dị với những lời đối đáp đôi
khi khôi hài trong đây đă nêu lên những giá trị bất
ngờ cho những người thích t́m cái ǵ quá cao xa. Chúng
ta đă t́m thấy đạo trong từng góc nhỏ của
cuộc sống khi Bác chèo ghe đi bán cũi, khi bác bị
xe quẹt té lăn ra đất, khi ăn tiệc, khi nằm
vơng đong đưa... Những Đạp lư rất sâu sắc
nhưng đă được khéo ứng dụng vào cuộc
sống thường nhật. Điều này làm chúng ta giật
ḿnh v́ từ lâu chúng ta quen đi t́m Đạo pháp ở những
nơi tôn nghiêm, linh thiêng, trong giảng đường,
trong chốn luận đạo...Và điều đó cũng
giúp chúng ta hiểu rằng Phật Pháp là ở khắp mọi
nơi.
Chúng ta cũng t́m thấy
quang cảnh thanh b́nh yên ả của miền tây sông nước
mênh mông, những con người Nam Bộ hiền lành chất
phác, ngôn ngữ miệt vườn là lạ khôi hài.
Qua tập sách này,
chúng ta càng thấy yêu thương con người nhiều
hơn v́ loài người có thể sai khác nhau trên nhiều
phương diện nhưng điều chắc chắn là
vẫn luôn luôn có một chân lư chung cho tất cả.
Xin chắp tay cúi
đầu nguyện cầu cho tất cả chúng sinh đồng
thành Phật đạo.
Kính bút
Tỳ kheo Chân Quang
Xin một đề
tựa cho những câu chuyện trong đây. Bác Hai bảo là
"CẶN BĂ KƯ ỨC"
Ôi! Cặn bă rồi
làm sao?
– Cặn bă không thể
xài được nữa! Thôi hăy dùng làm phân bón cho những
khóm hoa mai hậu.
17.
NGƯỜI TỐT Ở CẢNH NÀO CŨNG TỐT
58.
MỖI NGÀY MỘT BÀI NGUYỆN MỚI
84.
TÔN GIÁO - KHÔNG PHẢI VẤN ĐỀ
Chúng tôi may mắn quen
biết Bác Hai Như Sanh và có duyên được kể cho
nghe những mẫu chuyện vừa ư dị vừa dí dỏm,
qua các cuộc đàm thoại với đồng đạo.
Nghe qua chúng tôi thấy rất bổ ích, có thể lấy
đó làm bài học tùy nghi ứng xử trong đời
thường.
Đây là truyện kể
bằng văn nói, điều đáng tiếc là chúng tôi lại
không chuyên viết lách. Có thể nói chưa từng làm việc
này lần nào. Nhưng v́ sự hữu ích, muốn
được nhớ dài lâu nên chúng tôi không ngại ghi lại.
Nếu ngẫu nhiên
những CẶN BĂ KƯ ỨC này có lọt trong tầm mắt
quư vị độc giả, rất mong "đạt ư
quên lời".
Ư Bác Hai Như Sanh chỉ
muốn nêu lên một quan niệm tu hành thực tiễn,
phóng khoáng, tu không xa rời cuộc sống cũng như
người ta không thể xa rời hơi thở, và hiển
thị nó bằng những "bằng chứng sống"
trong kinh nghiệm tự thân.
Riêng đối với
Bác Hai, có xem qua xin Bác bổ chính thêm cho! V́ truyện Bác kể
mà chúng con viết lại tất nhiên không thể nào trángh khỏi
những sơ sót, thậm chí lệch lạc cả thâm ư
Bác gởi gấm trong đó nữa!
NHÓM SƯU TẬP
Ghi chú:
ĐT:Đức Thầy
TS: Thanh Sĩ
SG: Sám Giảng
Có hôm Bác ghé "cốc"[1] của đứa
cháu, thấy trên vách có ghi:
"Kiếp sau xin chớ
làm người
Làm thân sen báu bên trời
Tây phương".
Nhiều người
khen hay!
Bác nói:
– Tu mà tham quá!
Nêu chuyện trên dụng
ư đưa ra vài dữ kiện để suy tư với
cả hai chiều định lư, hầu t́m một lối thoát chính xác cho khỏi cảnh:
"Kiến kia miệng
chậu ḅ quanh,
Tưởng xa
nhưng chẳng khỏi vành chậu ô".
Tác giả thấy
ḿnh quanh quẩn măi, chưa ra khỏi ṿng đai VỊ NGĂ nên nêu lên đề tài THAM
HƠN ngầm mong một sự
xót thương chung!(
Bác Hai[1] thích thực tế,
không ưa chuyện mơ hồ. Bác có quen mấy cháu ở
Vĩnh Chánh, những người niệm Phật kiên tŕ lắm!
Họ tự qui định ngày niệm mấy muôn, nếu
thiếu phải thức khuya dậy sớm niệm bù lại.
Một hôm có dịp Bác nói với các cháu ấy:
– Không rơ cơ duyên làm
sao mà Bác lại niệm Quan Thế Âm Bồ Tát nhiều
hơn niệm Phật.
Một cháu hỏi:
– Ông Hai ơi! Con nghe
người ta nói niệm Quan Thế Âm hay thường nằm
mộng thấy Phật Bà lắm! Vậy Ông có mộng thấy
Phật Bà lần nào hôn?
Bác đáp:
– Không! Ông không chiêm bao
gặp, mà có gặp Phật Bà hiện ra ban ngày ở Long
Xuyên.
Cô bé tỏ vẻ ngạc
nhiên, mở to mắt nh́n Bác.
Bác kể tiếp:
– Hôm ấy khoảng
3–4 giờ chiều. Chiếc xe Long Xuyên – Cái Dầu sắp
rời bến. Nhưng có một
băng chưa đủ người, v́ có một ông cùi ngồi nên c̣n hai chỗ
không ai chịu ngồi cả. Lẽ ra với số khách
đó cũng đủ cho xe rời bến, nhưng v́
dưới bến c̣n khách nên lơ xe t́m cách chở đủ
số lượng. Bác tài lại thương thuyết ǵ
đó với ông cùi, nhưng ông tỏ vẻ bất b́nh,
không chịu. Sau cùng chú lơ xe lại đôi co:
– Ông đi làm tôi mất
hết hai chỗ ngồi.
– Việc đó
đâu phải lỗi tại tôi, Ông cùi đáp. Người
ta không đi mặc họ, tôi đi trả tiền đủ
thôi!
Chú lơ cáu lên:
– Ông xuống đi xe
khác, tôi cho tiền xe ông!
Ông cùi đáp:
– Tôi cần về
nhà, chứ không cần tiền. Nếu ai cũng nói như
chú th́ tối nay tôi ngủ đâu?
Không giải quyết
được, tài xế và lơ xe lằng nhằng hoài.
Hành khách cũng nhốn nháo. Ngay lúc ấy, một cô hành khách rất "moden"
đứng dậy nói:
– Để tôi giải
quyết cho!
Chú lơ xoay lại hỏi:
– Chị chịu trả
thêm hai chỗ ngồi nữa hôn?
Không cần! Cô ấy
nói. Tôi giải quyết ổn thôi.
Rồi cô đến
bên ông cùi và nói:
– Thưa Bác, Bác ngồi
sát vô con ngồi kế Bác là xong!
Cô vừa ngồi bên
ông cùi, một người lên ngồi cạnh cô và một người khác đến ngồi
ghế cô vừa bỏ trống.
Xe rời bến,
người cư sĩ chứng kiến sự việc năy
giờ tự nhủ:
– Lẽ ra việc làm
đó là việc của ḿnh, nhưng v́ ḿnh chờ xem, ngờ
đâu cô "moden" kia giải quyết đẹp quá!
(Chính vị cư sĩ
này thuật lại chuyện trên).
Đến đây Bác
kết thúc câu chuyện:
– Cô gái moden là hiện thân của Phật Bà
đấy!
Cháu bé lên tiếng
ngay:
– Con thà trả thêm hai
chỗ ngồi nữa, chứ không thể ngồi như vậy
được!
Bác nói:
– Phật Bà ngồi mới
được! Chứ cư sĩ ngồi không được
đâu!(
Bác Hai có chiếc ghe
độ sáu bảy chục giạ mà mấy cháu mượn
đi mua bán chuối ở Long Xuyên. Bến chuối th́ nhỏ
mà ghe chuối rất đông. Chiếc nào đến sau phải
đậu ngoài chờ trống mới chen vô được.
Ghe chuối nào cũng có 5 – 7 buồng chín, cần giải
quyết sớm. Có ghe đến đậu sau ghe Bác. Chủ
ghe hỏi đi nhờ trên mui
ghe ḿnh để đem chuối chín lên, Bác đồng ư.
Ghe Bác nhỏ, đậu
cạn, mà gánh chuối đi trên mui nên rúng ghe lắm! Mấy cháu than:
– Đi như vậy tụi con thấy nhót ruột
lắm! Đành rằng ghe của Bác, Bác cho người ta
đi nhờ, nhưng cũng tại tụi con mượn
đi buôn nên mới có cảnh
này.
Bác đáp:
– Kệ rángg giúp
người ta trong lúc ngặt. C̣n ghe ḿnh sớm hay muộn
ǵ nó cũng phải hư thôi! Mà... Phật đi đó, chứ phải người phàm sao?
Mấy cháu hiểu ư
nên cùng mỉm cười!(
Cô Bé (cô tên Bé) ở
Long Xuyên là cư sĩ tại gia. Cô có hứa với mấy chị bạn
(mấy cô này cất cốc tu theo hạnh xuất gia) là
để cô thu xếp việc nhà rồi sẽ cất cốc
gần với mấy chị đặng tu.
Hôm nọ, cô Bé gặp
Bác Hai bèn hỏi ư kiến (dạo đó mới tiếp
thu):
– Con muốn cất cốc
tu, chú Hai thấy sao?
Bác hỏi lại:
– Gia đ́nh cháu khá
không? Anh em nhiều ít? Cha mẹ c̣n không?
Cô đáp:
– Nhà có ăn, cha mẹ
c̣n đủ, anh em có ít người mà ai cũng dành nuôi cha
mẹ hết.
Ư cô muốn nói rằng
cô rất rảnh, khỏi lo tiếp gia đ́nh. Bác Hai th́
không có lập trường là phải tu tại gia, tu cốc
hay chùa ǵ cả! Nhưng v́ cô Bé nói anh em cô có ít người
mà ai cũng dành nuôi cha mẹ hết, nên Bác mới nói:
– Ủa! Sao người
ta không tu mà biết dành nuôi cha mẹ, c̣n ḿnh tu mà không biết
dành nuôi?
Thế là cô Bé bỏ
ư định cất cốc. Ít lâu sau mấy cô cư sĩ rủ cô bé cất
cốc hôm nọ đó, mời Bác Hai ghé cốc mấy cổ
chơi. Sau khi cơm nước và đàm luận một lúc lâu, mấy cô mới nói:
– Nhờ anh Hai giải
thích giùm: Cái hiếu thế gian
và cái hiếu xuất thế gian!
– Chèn ơi! Hồi
nào tới giờ tôi không phân chia cái hiếu ra như vậy
nên không biết. Theo ư tôi th́ con người làm cách nào đó
để đền ơn cha mẹ, là người con có
hiếu.
Mấy cô nói:
– Có người quan
niệm phải xuất gia tu hành đắc đạo
để cứu vớt cha mẹ. Vậy anh thấy sao?
Bác đáp:
– Cái đó quí vô cùng,
nhưng nên nhớ: "Đặng chài đặng ch́; mất
chài mất ch́" nhé!(
Ông giáo, nhà ở trong
ngọn, dạy học ngoài vàm và ở luôn bên vợ ngoài ấy.
Bữa nọ chiếc
tàu đ̣ trong ngọn chạy ra, dừng chầm chậm
ngay trường học. Có một
người tḥ đầu ra hỏi to:
– Có thầy A ở
đó không?
Lũ học tṛ đáp:
– Dạ không có! Thầy
A chưa đến!
– Bây báo tin gấp cho ổng
hay:"Má ổng chết rồi!".
Tàu mở máy chạy
luôn. Học tṛ hỏa tốc chạy cho thầy hay! Ông giáo
quưnh quáng, báo cho gia đ́nh bên vợ và Ban Giám Hiệu. Ai nấy
vội vàng đi mua đồ phúng điếu. Riêng thầy
A đạp xe chạy thục mạng về trước,
ḷng buồn vô hạn. Ông đinh ninh từ nay đă mất
mẹ rồi!!!
Về tới nhà, xe vừa
quẹo vô tới cửa rào thấy mẹ xách hai thùng
nước nhỏ tưới trầu, ông quăng ngay chiếc
xe, nhào lại ôm mẹ kêu:
– Trời ơi! Má!
Má! Má ơi Má!
Bà già ngạc nhiên hết
hồn, không biết vụ ǵ mà con bà ôm chặt lấy bà với
nước mắt ràn rụa và cứ kêu má măi! Hồi lâu
ông giáo mới bệu bạo:
– Vậy mà ai ác ôn, nhắn
tin nói má chết rồi!
Lát sau, bên vợ ông
giáo và mấy thầy cô đồng nghiệp chở đồ
phúng điếu vô đến, hay rơ sự việc ai nấy
cười ngất. Sẵn đồ đạc, thôi th́ họ
làm một bữa tiệc
ăn mừng!
Bây giờ ông giáo rất
vui. Ông không oán trách kẻ trác ḿnh, v́ vụ "chơi
khăm" vừa qua giúp ông nhận được bài học
quí.
"Mẹ c̣n là nguồn
hạnh phúc lớn lao!" Chớ có thờ ơ uổng
phí!!!(
Có một cháu hỏi:
– Câu thành ngữ:
"Máu ai thơm thịt nấy" là sao Bác?
– Thường th́ mẹ
rất thương con. Có khi con ḅ chơi dưới đất,
mặt mày lem luốc mà mẹ vẫn ẵm bồng hôn hít
một cách ngọt ngào,
thơm lắm!
"Máu ai thơm thịt
nấy" là thế!
– Các câu tục ngữ
luôn luôn ư nghĩa rất sâu xa, mà câu này con nghĩ măi thấy
nó cũng tầm thường, có ǵ đâu! Nay Bác nói con mới
nhận ra.
– Cái đầu không
biết đâu. Trái tim mới nhận được!(
Vợ chồng
chú Bảy mua bán máy cũng phát tài lắm! Chú thím đều
dùng chay trường.
Một hôm gặp Bác, thím than văn:
– Chú Hai
ơi! Ông nhà tôi dạo này ổng ngán ăn tương quá rồi!
Chú làm sao khuyên giúp giùm.
Nhân có mặt chú Bảy ở đó, Bác
nói:
– Ăn
chay không nổi tôi biết nói sao bây giờ, tính sao đó
tính.
Rồi
Bác nói tiếp:
– Có hai vợ
chồng chú Út nọ, đều là giáo viên, đời sống
cũng tương đối khá. Chú có người anh là sĩ
quan ngụy, học tập hơn 5 năm mới về.
Trong câu
chuyện ông anh kể lại những nỗi khổ ở
trại cải tạo, có nhắc đến ông Bác sĩ
trước là Trưởng ty Y Tế Kiến Phong (Đồng
Tháp) cũng học tập cùng trại.
Ông Bác sĩ
khao khát được ăn một miếng canh rau
tươi. Bên ngoài vách trại có loại rau trai. Ông lấy
kẽm gai làm cây móc để khều từng cọng rau kẽ
theo vách, khó khăn lắm mới nhặt được một đọt. Được 5–7
đọt ông rửa sạch để vào lon Guigoz cho vào ít
nước và muối, đậy kín gởi trong chảo
cơm. Thế là bữa đó có món canh ngon! Mà lâu lắm mới
được một bữa như vậy. Chế độ
ăn uống trong trại thật kham khổ, một cái hột vịt tám người
ăn v..v.. Cả cơm cũng thiếu!
Nghe ông anh
kể nỗi khổ trong tù, chú giáo xúc động lắm!
Chiều
hôm đó vợ chú dọn cơm canh bồ ngót với cá kho. Bữa
cơm b́nh dân, đạm bạc thôi, thế mà chú ăn ngon
lạ!
Do sự
xúc động thương tâm v́ chuyện nhọc nhằn,
thiếu thốn, khổ đau trong tù của người
anh, khiến chú thấy bữa ăn đơn giản ấy
trở thành thịnh soạn, ngon hiếm có vậy!
Bác kể đến đây thôi, không
kết luận.(
Một ông bạn hỏi Bác Hai:
– Theo ư anh
tụng – niệm, cái nào hơn?
Bác trả
lời:
– Hai cái
đó chẳng có cái nào hơn cái nào cả. Hơn kém do sự
dụng tâm của con người. Nếu ḿnh niệm Phật
mà thấm nhuần các đức Từ, Bi, Hỷ, Xả của
Phật và đem ứng dụng vào đời sống, cái
tác dụng đó mới đáng kể. C̣n tụng kinh mà ḥa
nhập cuộc sống sát với nghĩa lư trong kinh th́ sự
tụng kinh ấy mới có giá trị.
Ngược
lại, nếu niệm Phật mà không thể hiện
được đức Từ, Bi, Hỷ, Xả của
Phật; tụng kinh mà không thấu được nghĩa
lư, không sống khế hợp
với lời dạy trong kinh th́ cũng như trả bài vậy
thôi! Tóm lại, do dụng tâm đúng sai mà có hơn kém, chẳng
phải do tụng hay niệm.
Ông ấy
hỏi tiếp:
– Theo tôi
nghĩ ḿnh khởi tâm muốn niệm Phật là động.
Niệm năm mười tiếng rồi khởi tâm niệm
Phật thêm là động nữa. Vậy có phải động
không?
Bác Hai
đáp:
– Đúng
rồi! Khởi tâm niệm Phật là động. Nhưng,
thí dụ nhà hàng xóm gặp tai nạn nguy cấp, ḿnh lo lắng
cứu giúp lăng xăng th́ đó là động mà ḷng ḿnh
cảm thấy b́nh an. Thế là động, mà vẫn tịnh.
Lại có khi ḿnh ngồi không, chẳng làm ǵ hết lại không
an. (
Có người
hỏi:
– "Sống
chết là một". Là sao Bác Hai?
Bác
đáp:
– Mỗi
một ngày qua, có thể nói ḿnh sống thêm được
một ngày, hay bảo rằng ḿnh đă chết đi hết
một ngày cũng đều
đúng!(
Có mấy
cháu đến nhờ Bác dạy cho những kinh nghiệm
tu hành.
Bác trả
lời:
– Bác chẳng
có kinh nghiệm ǵ cả, chỉ coi Sấm giảng mà tu
như mấy cháu vậy thôi.
Mấy
cháu năn nỉ:
– Thôi th́
Bác cho cháu một lời khuyên.
Bác nói:
– Việc
tu hành điều quan trọng là phải thành thật với
chính ḿnh. Nếu không thành thật với ḿnh th́ không thể
tu được. Với người, đôi khi ta có thể
dấu được. V́ sao? Bởi có những sự thật
không nên nói, v́ nói không có lợi. (
Bác có người bạn trường
chay, vừa sắm thùng suốt lúa mướn. Có lần
Bác ghé thăm chơi, xem việc làm ăn của bạn khá
không?
Ông bạn
ấy than thở:
– Làm kiếm
ăn được. Có điều từ hôm suốt lúa
mướn đến nay, tôi hay nổi sân quá chừng! Nhiều
cái tức lắm! Anh coi, hai ba chủ ruộng qua đây kéo
tiếp thùng suốt đến đất của họ
đặng suốt. Đến nơi, có con mẹ đó
đ̣i phải suốt cho nó trước, v́ nó bận việc
nhà. Nó cự nự vang dội! Tức quá, tôi la: "Bộ
bây mẹ người ta hả? Đẩy thùng qua mệt
muốn chết, bây không tiếp, bây giờ giành suốt
trước!"
Đại
loại như vậy, theo máy suốt riết tôi hung dữ
lắm rồi! Anh ở lại chơi chỉnh tiếp
giùm tôi.
–
Được rồi! "KHỎI CHỈNH!" Để
vậy, người ta gặp ai ăn chay trường họ
mới ngán, không dám ăn hiếp chứ!!!(
Một lần
nọ Bác về viếng chùa Tây An và thăm mấy cô cư
sĩ tu thuở trước. Lâu quá mới
gặp lại, ai nấy đă già cả hết rồi! Mấy
cô mừng Bác và trách:
– Sao lâu
ghê anh không về đây chơi. Thỉnh thoảng anh ghé qua
để khuyến tấn tụi em tu tiến, đặng
có về Tây phương, chứ ở cơi Ta bà này nhiều
chuyện bực ơi là bực!
Bác nói:
– Thôi về
trển làm chi! Ở trần
này mà biết thương yêu, tha thứ và đùm bọc
giúp đỡ lẫn nhau cũng vui rồi. Về Tây
phương mà người ngồi cao, người ngồi
thấp rồi háy nguưt nhau cũng vậy hà!(
Một
hôm Bác đạp xe lên Long Xuyên, đến giữa dốc cầu
Cái Sắn xe chậm lại v́ hết trớn. Ngược
chiều với Bác, một chú
bộ đội mặc quân phục (nylon dầu), đội
nón tai bèo, dáng vẻ xem khó thương lắm! Xe chú ta cũng
sắp hết trớn nên chậm lại khoảng giữa
cầu.
Bên lan can
cầu có mấy đứa nhỏ xin ăn ngồi thơ
thẩn ở đó. Thấy chú bộ đội vừa
đạp xe chầm chậm, vừa nh́n lom lom mấy
đứa nhỏ ấy, Bác nghĩ bụng chắc hắn
ghét tụi nhỏ lắm (Cách Mạng vốn không thích
người ăn xin). Không ngờ, chú ngừng xe lại và
ra dấu gọi mấy đứa bé cho tiền, rồi
chú thả dốc chạy luôn xuống Thốt Nốt. Bác cũng
gọi chúng nó qua cho tiền, rồi thả dốc chạy
lên Long Xuyên.
Bấy giờ
mặc cảm không c̣n. (
( LÀM BIẾNG
TU ĐƯỢC KHÔNG?
Một
cháu gái hỏi:
– Con làm biếng
chắc tu không được hả ông?
– Ồ!
Làm biếng tu là khỏe nhất. Ông cũng tại làm biếng
mới tu đó! Lo gánh vác gia đ́nh, vợ con đau
đói, làm ăn thắng thối lỗ lời... mệt chết!
Làm biếng nên chọn đường tu là đúng rồi!!!
( HAY LO QUÁ
TU ĐƯỢC KHÔNG?
Một cháu thợ may hỏi:
– Con tánh
hay lo "bá ban vạn sự" lu bu chắc tu không
được quá chú?
– Tánh hay
lo tu được lắm cháu! Thứ "đặng
không mừng, mất không lo" mà tu ǵ? Hay lo là tu được,
cứ tu đi!
– Hèn chi
người ta bảo chú là "ông già ba phải". Cái ǵ
cũng được, cũng phải hết!(
Người
toán trưởng nhóm tù Nga, một
hôm dẫn tù đi lao động. Một tù nhân ở chỗ khuất gió, ấm
áp (xứ Liên Xô mùa đông lạnh khủng khiếp) nên anh
ta ngủ quên. Hết giờ lao động, lính điểm
danh dẫn tù về. Thấy thiếu một người,
cả toán tù chia nhau đi t́m. Cuối cùng họ gặp anh
đang ngủ. Anh ta bị lôi ra. Một người lính trở
bá súng toan đánh. Người toán trưởng thấy thế,
nhào lại đánh đá người tù túi bụi và đẩy
anh ta xếp vào hàng.
Hành động
đánh trông hung hăn lắm! Nhưng anh toán trưởng muốn
"cứu bồ" đấy! Nếu không làm như thế,
để tên lính đập bằng básúng chắc người
tù kia mệt lắm!
"Ởû
h́nh thức, thế nào là thiện ác!"(
Ở chế
độ trước (Ngụy) có lần cả tiểu
đoàn quốc gia hành quân vô Ba Thê. Họ đóng quân, đào
công sự pḥng thủ chưa xong. Đêm đó, quân giải
phóng ra đánh úp. Lính Quốc Gia đại bại! Quân Giải
Phóng gấp rút thu dọn chiến trường, đặng
rút đi ngay trong đêm.
Một
người lính Quốc Gia bị thương nặng
(chính anh này về sau kể lại) đang rên rỉ! Một
toán lính giải phóng đi ngang thấy anh c̣n sống liền
la lên:
– Bắn
nó đi, nó c̣n sống đó!
Một
người trong đội can:
– Thôi khỏi
bắn nó cũng chết!
Rồi giục
đi t́m chiến lợi phẩm. Lát sau toán Giải Phóng
khác tới, một chú Bộ đội phát hiện người
lính Ngụy bị thương nằm đấy liền hỏi:
– Mày c̣n sống
hả? Bị thương nặng không?
– Nặng
lăm! Người lính Ngụy đáp – Anh làm ơn cho tôi
xin miếng nước!
Người
lính Giải phóng nói:
– Mày uống
nước là chết liền đó!
Rồi
anh móc ra một vắt cơm nhăo nhẹt như thiu
đưa cho anh lính ngụy và nói:
– Mày nhai
cái này nút nút cho đỡ khát, sáng Quốc gia đến cứu
mày. Uống nước chết liền đa!
Người
tốt xuất thân ở đâu và đứng ỡ lănh vực
nào cũng tốt. Người xuất thân từ Tôn Giáo nghĩ
sao!(
Có cô ở
Long Xuyên, tu lâu rồi mà thường gặp chuyện buồn
phiền, bứt rứt trong ḷng. Gặp Bác, cô ấy hỏi:
– Anh Hai à!
Không hiểu sao tôi tu mà cứ gặp chuyện lu bu hoài không
yên?
Bác
đáp:
– Tại
cô chưa "Thét thẳng con đường".
Cô làm
thinh! Mấy tuần sau gặp lại, cô nói:
– Hôm
trước anh nói mà tôi không dám căi, v́ xưa nay anh nói ít trật
lắm. Nhưng việc này tôi nghĩ măi chưa ra! Tôi th́
đă quyết tâm tu từ lâu, nguyện dù bỏ thân, chớ
không bỏ đạo. Mà anh bảo tôi chưa thét thẳng
con đường, là ư làm sao?
Bác
đưa ra thí dụ:
– Như
cháu bé (chỉ cháu nội của cô ấy) ḅ ra lan can nhà phía
sau mé sông, sắp té. Cô thấy vậy, gấp rút ra bồng
nó lên. Lúc ấy những chướng ngại vật
như cây củi, bàn ghế, ly chén... nằm ngổn ngang giữa
đàng đi, cô bước trángh nó để dễ dàng ra ẵm
cho kịp cháu bé, chớ không cảm thấy bực dọc
và rầy la như thường ngày. Cô tu mà không thét thẳng
con đường nên c̣n bận bịu vô số vấn
đề vặt vănh không đâu. Không hỷ xả, cứ
ôm gồm đủ thứ nên cô luôn luôn gặp phiền năo
là vậy!(
Một
hôm Bác nằm ở nhà người quen đọc quyển
"Khuyến Thiện". Đọc đến đoạn:
"... thức
dậy mà tầm đạo kiếm bài,
Để
thi cử khỏi mang tiếng rớt"
Cô gái của
chủ nhà ở đâu dưới bếp chạy lên hỏi:
– Anh Hai!
Kiếm bài ǵ ở đâu anh?
Th́ bài
đang học đây nè!
Bác vừa
đáp, vừa vạch vạch quyển giảng.
– Em hỏi
thiệt mà!
– Th́ tôi cũng
nói thiệt đó! Cô nghe tiếp vài câu nè!
Bác đọc
tiếp:
"Sách khuyến thiện, miệng
kêu không ngớt. Mà nào ai có thức dậy tầm..."
Thế là
bài học trong tay ḿnh hăy rángg t́m cho hiểu lư để tu
hành, đừng mong ngóng viễn vông, phải không cô?
Cô gật
gật đầu chạy tuốt xuống bếp. (
Cô cư sĩ
hỏi:
– Chú Hai
ơi! Sao tu hoài mà không thấy tiến?
Bác nói:
– Về
kiếm chuyện gây lộn một trận với người
ta tơi bời th́ nó tiến hà!
Cô tưởng
nói chơi nên lập lại câu hỏi một lần nữa.
Bác trả
lời y như vậy rồi thôi!
Vài tháng
sau gặp lại, cô nói:
– Hôm hổm
chú nói, nay con biết rồi.
Bác cũng
không hỏi xem cô hiểu biết ra sao.
Sở dĩ
Bác trả lời với cô ấy như vậy là v́ thấy
cuộc sống của cô rất bằng phẳng, êm đềm,
không có đụng chạm, chẳng có ǵ để thắc
mắc, suy tư, để soi rọi lại ḷng ḿnh. (
Có mấy
cháu gái đến chùa Từ
Quang tu học một thời
gian. Trong chùa có bà Năm cũng vào chùa tạm trú để
niệm Phật. Bà Năm rất khó tánh, không ai biết làm
sao mà ch́u theo bà được! Bà thường rầy la,
trách cứ các cháu (nhất là mấy đứa cháu gái).
Chúng nó phiền muộn than thở măi!
Ông trụ
tŕ chùa thường khuyên răn bà, nhưng tre già khó uốn!
Bác Hai
thương xót các cháu v́ mến mộ đạo đức
mới đến đây học hỏi, mà phải chịu
cảnh ray rức, buồn phiền này!
Một
hôm Bác đến cốc mấy cháu để khuyên nhủ:
– Người
tu nhờ những cái bất như ư, những sự va chạm,
khó khăn để có dịp soi rọi lại ḷng ḿnh mà
tu sửa. Ḿnh tu, không lẽ ra ngoài xóm chọc cho thiên hạ
mắng ḿnh để ḿnh tu! Thôi sẵn có "Bà Năm rắc
rối" đây ḿnh tu với bả đi, không mắc
công chọn người khác.
Nhờ lời
khuyên có vẻ "têu tếu" đó mà mấy cháu mát mẻ
suốt thời gian tu học ở chùa. Mỗi lần,
"bà Năm rắc rối" rầy la ǵ đó, th́ mấy
cháu nh́n nhau cười cười là hết chuyện.(
Có người
thắc mắc làm phước thiện ḿnh có bị trói buộc
bởi phước báo của ḿnh?
Bác nói:
– Ḿnh
được tự do trong nghiệp lành, chứ không
được tự do trong quả ác.
Ví dụ
số ḿnh được phước báo mạnh khỏe,
sống lâu, mà ḿnh không muốn sống th́ cứ tự vận. Hay ḿnh đang giàu
có mà không muốn giàu th́ có quyền bỏ đi dễ dàng.
Ngặt ḿnh đang đau ốm hay nghèo khổ mà ḿnh không
muốn cũng chẳng được. V́ lẽ đó mà
chư Phật Tổ dạy ḿnh "Phải làm lành, làm
phước" là vậy.
Nghiệp
lành đă không trói buộc được ḿnh, mà nó c̣n giúp
ḿnh tiến nhanh trên đường đạo nữa.(
Sư Giác Thanh
có xem qua quyển Ṭng Lâm Cổ Tích của Bác Hai và
Sư thích lắm. Một hôm,
Sư ghé thăm người bạn của Bác.
Sư nói:
– Tôi tin
tưởng Bác Hai Như Sanh
kiếp này sẽ sạch vọng.
Người
bạn kia kể lại cho Bác nghe, Bác cười nói:
– Người
ta sống nhờ có ba cái vọng, sạch vọng chết
c̣n ǵ!
Ít lâu sau gặp
lại Sư, bạn Bác thuật lại câu nói trên của
Bác cho Sư nghe. Nghe qua Sư cười nói:
– Bác Hai
nói vậy tôi hiểu, "Kính gởi Bác một thoi".(
Một cô hỏi:
– Ḿnh
thương con cháu đồng như nhau, nhưng sự lo
lắng giúp đỡ không đồng. Vậy có bất
công không?
Bác Hai
đáp:
– Không bất
công đâu! T́nh thương như nước, bằng mặt trên chớ không bằng
mặt dưới (B́nh thiên không b́nh địa). Mặt
nước tuy phẳng nhưng đáy nước chỗ
sâu chứa nhiều, nơi g̣ nỗng chứa ít nước
hơn. Con cháu ḿnh thương đồng nhưng đứa nào khờ khạo
tật nguyền th́ ḿnh lo cho nó nhiều hơn đứa
khôn ngoan giỏi dắn.
Phật cũng
vậy, người thông minh trí tụê Phật chỉ dạy
vài lời thôi, c̣n kẻ hạ căn, kém trí tụê Phật
phải dạy dỗ đủ điều, thậm chí phải
chịu hy sinh chịu gian khổ dùng mọi phương tiện
để giáo hóa.
Chứ Phật
đối với chúng sanh t́nh
thương vẫn b́nh
đẳng như nhau.(
Có đứa
cháu chuyên làm bơm nước và sửa máy. Thỉnh thoảng
vợ chồng nó đến thăm Bác. Bác nói với nó:
– Ḿnh tu
hành không phải có thiện tâm, thiện chí mà đủ, cần
phải thiện nghệ nữa.Ví như nghề làm của
cháu, có thiện chí là làm hết ḷng, có thiện tâm là không thừa
cơ hội đập đổ. Nhưng nếu không thiện
nghệ khiến cho máy sửa, lẽ ra sử dụng
được măn mùa, mà người ta đem về xài nửa
chừng lại hư. Thế nên không thiện nghệ th́
ḿnh vẫn phải c̣n thiếu
nợ cuộc đời. Tu không chỉ có thiện tâm, thiện
chí thôi, mà cần phải thiện nghệ nữa. Tóm lại,
người tu phải hướng về chân thiện mỹ
trong mọi mặt.(
Người
bạn Bác bán thuốc tây, anh cũng lo tu hiền.
Một hôm gặp nhau, anh em hàn huyên một hồi, bỗng anh hỏi:
– Anh Hai à!
Anh nhắm chừng nào đời tới (một biến cố
lớn làm thay đổi tất cả, hoặc tận thế)?
– Chi vậy?
Bác hỏi.
– Đặng
coi gần tới ḿnh buông!
– Chờ
ăn không được mới buông ai mà mang ơn, muốn
buông th́ buông trước đi!(
Lần
đó người bạn Bác đang giảng đạo cho
mấy cháu. Bác vừa bước tới, anh ấy nửa
đùa nửa thật nói:
– Có ông
"Quỷ Cốc Tiên Sinh" đây, nhờ ông giải
nghĩa dùm câu này. Mấy cháu nó hỏi: "Khó t́m cho gặp
chủ nhơn ông..." Vậy làm sao t́m?
Bác nói:
– Ôi, Thầy
đă nói khó t́m, t́m chi cho cực!
Có người
hỏi tiếp:
– Không t́m
rồi làm sao gặp?
Bác nói:
– Thôi ḿnh
làm chủ lấy ḿnh dễ hơn!(
Một
hôm Bác vào chùa đàm đạo với vị Tỳ Kheo. Nhằm
ngày rằm, trẻ em theo ba mẹ đi chùa khá đông. Chúng
nó hồn nhiên đùa giỡn tung tăng, trông vui quá! Vị
Tỷ Kheo ấy nói:
– Đời
sao tràn đầy ư sống, nh́n lại ḿnh tu sao cằn cỗi
khô khan!
Nghe vị
Tỳ Kheo than thở như vậy, sẵn thấy giữa
chùa có tượng Phật Di Lặc thật to, Bác nói:
– Ông Phật
nghe đệ nói ổng cười ḱa!(
Hồi
trước, có một dạo
phong trào đọc giảng qua máy phóng thanh rất thịnh
hành khắp miền Tây. Nơi nào có đông tín đồ
PGHH người ta tự động sắm Ampli để
phát thanh sám giảng vào những ngày sóc vọng.
Một
đêm kia, sau giờ phát thanh sám giảng, đồng đạo
cùng nhau dùng trà nước. Chủ nhà thu dẹp máy móc và lấy
cái loa (c̣n gọi là bông bí) đút dưới sàng chơng. Một
đồng đạo phản đối:
– Cái loa
để phát thanh sám giảng mà anh để dưới
sàng, như vậy là tội!
Người
khác bào chữa:
– Nó (cái
loa) bằng sắt, thiếc, ḿnh dùng nó để phóng thanh,
chớ tiếng đọc giảng có dính trỏng đâu
mà tội!
Một người khác căi:
– Đành
rằng nó bằng sắt, như kinh giảng cũng bằng
giấy mực, nhưng ḿnh để bừa băi, chỗ
không trang nghiêm sạch sẽ là có tội.
Chủ
nhà phân tách:
– Kinh giảng
ghi chép lời của Phật Tổ dạy, nên ḿnh phải
kính trọng lời dạy ấy trong kinh. Chứ cái loa nào
có chứa ǵ đâu? Chẳng qua nó là dụng cụ nhằm
khuyếch đại âm thanh. Ai muốn nói ǵ đó th́ nói.
Mỗi
người một ư, căi lẽ nhau măi không ngă ngũ. Bỗng
có ông bạn quay qua hỏi Bác Hai:
– Ờ!
c̣n anh Hai, ư anh th́ sao? Để cái loa dưới sàng vậy
có tội không?
Bác không
phán đoán chuyện đó mà nói một chuyện khác:
– Con
đường dọc theo làng tôi rất rộng, có khoảng
trống vắng không nhà ai ở cả, lại có một lùm cây mọc cạnh lề
đường. Trong lùm cây ấy có 7 – 8 viên đá nằm rải
rác. Người đi đường hay ghé lại đây
tiểu tiện. Kẻ tới, người lui tiểu tiện
trên mấy viên đá ấy, lâu ngày nó nhẵn thín. Một hôm có mấy chú thanh niên đi qua cũng
bết lại đó tiểu. Một chú vừa đái trên một ḥn đá vừa nói:
– Cục
đá này giống ông Tà[1] quá bây!
Về nhà
không hiểu sao mà ḥn bi của
chú sưng tấy lên, đau nhức quá! Chú phải cúng vái
Ông Tà một nải chuối
để tạ lỗi, bệnh mới khỏi.
Đêm
đă khuya, mọi người cười x̣a rồi giải
tán.
Tứ ân
biết đền làm sao cho rồi?
Đó là
câu hỏi của mấy cháu cư sĩ, và đền ân
nào trước, ân nào sau?
Bác nói:
Chuyện
đời không khi nào rồi đâu, tứ ân cũng thế.
Có điều đối xử nhau tất t́nh là rồi,
c̣n việc trước sau không cần phải chọn lựa
ǵ hết, gặp đâu làm đó.
Ví dụ
cha hay mẹ bệnh rất nặng, ḿnh phải chạy
đi mua thuốc khẩn cấp. Nhưng khi chạy đến
bờ sông, trước khi qua cầu, bỗng ḿnh thấy
đứa bé rớt xuống sông. Rồi c̣n phải cân phân
việc nào lớn, việc nào nhỏ, làm trước, làm
sau hay sao?
Không thể
chậm trễ, phải nhào xuống vớt nó lên ngay! Không
may lúc nhào xuống lại bị một cây cọc ngầm đâm chết
đi! Không mua thuốc được, chẳng vớt
được đứa bé, cũng chưa đem thân giúp
ích nước non ǵ cả! Thế mà ḿnh cũng trọn nghĩa
ân và mọi người ai cũng đều nghiêng ḿnh
trước kẻ vị nghĩa vong thân.
Tất
t́nh với nhau là rồi, chứ c̣n chuyện đời
không bao giờ hết!
Có hai cháu ở
một địa
phương xa xôi. Vùng đó ít ai tu hành, chỉ có hai đứa
nó tu thôi, nên thương nhau lắm! Một đêm nọ có tiếng la cháy nhà!
Thằng nầy chạy ra thấy nhà bạn nó bị cháy. Nó chạy bất kể
chết sang tiếp cứu, rủi đụng phải cây
dừa người ta kê bên đường để
cưa. Nó té xỉu một hồi mới thở được,
đau đớn vô cùng mà nó cảm thấy sung sướng.
V́ đă hết ḷng với bạn, mặc dù không tưới
được gào nước nào cả!(
Một người bạn hỏi Bác Hai:
– Vả
như anh đang cúng ngoài bàn Thông Thiên, trời bỗng
mưa tới, anh chạy vô không?
Bác
đáp:
– Chạy
chớ! Vô nhà cúng ra.
Th́ ra năy
giờ mấy anh bạn bàn bạc về chuyện một
người đồng đạo đang cúng nơi bàn
Thông Thiên ngoài sân, bỗng mấy đứa nhỏ trong nhà
để đèn sơ ư làm lửa bắt cháy quần áo
máng trên vách. Ông hay nhưng vẫn rángg cúng cho rồi mới
chạy vô th́ đă cháy hết bốn năm bộ đồ!
May mà không cháy nhà v́ chỗ đó ít bổi.
Mấy
ông bạn Bác hỏi:
– Trường
hợp đó như anh, anh làm
sao?
Bác nói:
– Tôi th́ chạy
vô chữa lửa ngay! Giữ
tṛn một thời cúng mà
có thể mất đi hàng ngàn thời cúng khác th́ lỗ lă
quá! Cháy nhà là tiêu cả sự nghiệp. Đôi khi suốt
đời chưa phục hồi lại được. Bấy
giờ lấy nhà đâu để mà thờ, mà cúng nữa?
Vả lại
cúng kiểu cháy nhà đó chắc ǵ được an tâm
mà gọi là giữ cho tṛn. (
Một cô cư sĩ hỏi:
– Đức
Thầy bảo:
"... Nữa
sau lọc lại vết tỳ cũng chê".
Ai mà khỏi
vết tỳ?
Bác Hai
đáp:
– Vết
tỳ ở đây có nghĩa là dối tu, lợi dụng
danh nghĩa đạo để tạo đời. Chứ
ai lại không lạc lầm sái quấy khi chưa biết
tu.(
Có người
hỏi:
– Đến
giờ cúng ngán quá chừng! Làm sao cho đừng ngán hở
chú?
Bác nói:
– Hăy biến
nó thành một đam mê th́ hết ngán. Công phu cúng lạy mà
nhằm ǵ với việc đá banh, thế mà người
ta vẫn mê đến quên ăn.
Hồi nhỏ,
mỗi lần đang ăn cơm mà nghe ngoài sân banh tiếng
đá b́nh b́nh là trong này tôi lua riết cho rồi, không cần
biết ngon lành ǵ nữa. Lẹ đặng chạy ra
đá banh. Đá banh đâu phải khỏe, lắm lúc mệt
muốn đứt hơi nhưng v́ ham quá nên không ngán ǵ cả.
Biến
công phu thành một đam mê, thời cúng sẽ vô cùng thích
thú.(
Có người
hỏi:
– Sao ḿnh
cúng mà trong ḷng cứ nghĩ chuyện này nọ lăng
xăng, làm sao cho nó yên! Chú Hai?
Bác nói:
– Hồi
đó tới giờ có thời cúng nào chú thấy vừa ư
không, nghĩa là khỏi phải kềm chế, g̣ ép mà ḷng vẫn
thanh thoát, yên vui.
– Dạ cũng
có đôi khi.
– Hăy ôn lại
xem, hôm ấy làm sao mà tâm được an như vậy? Rồi
lấy đó làm chuẩn. Giống như ḿnh đóng
đinh dưới nước, cứ nhịp nhịp
đầu đinh cái nào đúng th́ cứ theo đó làm chuẩn
mà đóng tiếp. (
Có ông bạn
nhà bên cạnh đường. Một tối nọ ông
đang cúng trên gác, bỗng nghe tiếng than văn dưới
đường: "Giờ này làm sao dám kêu cửa nhà ai
để mượn ống bơm, biết ai có mà hỏi!"
Trong khi đó, nhà ông có ống bơm, ông cũng biết
người la đang ngặt lắm, muốn kêu cho mượn
nhưng sợ lỡ dở thời cúng nên thôi! Cúng xong, ông
mới thấy thời gian thừa thăi làm sao! Ḷng cảm thấy
hối tiếc, tự trách:
– Phải
lúc năy ḿnh ngưng cúng, kêu cho mượn ống bơm, người ta mừng biết
bao! Đây là dịp để ḿnh tu, để ḿnh thể
hiện tinh thần đạo đức (ban vui cứu khổ).
Rồi bấy giờ mặc sức mà cúng đến sáng cũng
được.
Bác nói:
– Chú suy
tư như vậy là tiến bộ lắm. Chắc chắn
lần sau sẽ không để dịp trôi qua, khỏi phải
hối tiếc như vậy nữa!(
Có một cháu đến thăm Bác và nhờ
Bác chỉ dạy phương pháp tu hành.
Bác nói:
– Cháu ghé
thăm Bác cám ơn, c̣n việc tu hành hăy coi sám giảng mà
tu. Bác Hai cũng coi sám giảng để tu đó!
Nó nài nỉ:
– Ngặt
con c̣n kém quá, không phân biệt được giả
chơn!
Bác nói:
– Thôi
đừng bày phân biệt, bỏ giả t́m chơn lu bu lắm.
Có điều cháu nên nhớ là ngoài cái giả không có cái
chơn.
Cháu suy nghĩ
một chốc rồi nói:
– Con không
hiểu câu đó!
Bác thí dụ:
– Thân ḿnh
là giả thân, thân cha mẹ cũng là giả thân, thế mà
đem giả thân này hết ḷng phụng sự cho giả
thân của cha mẹ, cái hiếu
đó không giả. Nó có sức cảm động đến
đất trời; hay trái lại, đem giả thân này ở
tệ bạc với cha mẹ, cái bất hiếu đó
không giả. Tội đọa đến Địa ngục
A tỳ.
Thí dụ
khác: Như ḿnh đem đồng tiền, bát gạo giúp cho
kẻ khốn cùng đói khó. Thân kẻ đó là giả thân,
của ḿnh là giả của, thế mà cái phước
đó không giả.
Sám giảng
có câu:
"Trồng
cây lành vị quả thơm tho,
Tuy không thấy
mà sau chẳng mất."
"Ngoài
cái giả không có cái chơn", hay nói "Trong cái giả
có cái chơn" cũng thế.(
Có chú hỏi:
– Hằng
ngày ăn chay, cúng lạy, xem kinh, niệm Phật, tham thiền,
vậy đúng hay sai?
Đây là
câu tiền đề, dọn đường cho một câu
phản đề khác mà nó sẽ hỏi sau.
Bác Hai nói:
– Mấy
điều em nói đó cái nào cũng rất đẹp! Hằng
ngày làm được mấy điều trên là quí lắm.
Nhưng hăy xét lại ḷng ḿnh xem có b́nh an thoải mái không? Và
trí tuệ có minh mẫn không? Bác chỉ nói đến minh mẫn
thôi, chứ không nói đến phát huệ. Nếu ḷng ḿnh
b́nh an thoải mái, trí tuệ minh mẫn là đúng. Ngược
lại hằng ngày vẫn làm như trên mà ḷng c̣n u buồn
ray rứt, trí tuệ c̣n mờ mịt là c̣n sai, hăy tự
t́m mà sửa lấy! Dụ như cái máy mới sửa, thay
toàn bộ cái ǵ cũng tốt cả, nhưng quay không nổ
hoặc nổ chân ba không êm là
c̣n sai, c̣n trục trặc ǵ đó, phải chỉnh lại
cho đúng nó mới êm.
Bác không biết
em nó định hỏi ǵ, nhưng khi trả lời như
vậy h́nh như nó thỏa măn không hỏi thêm nữa!(
Có đứa
cháu nói với Bác:
– Con không
tu th́ thôi, nếu tu con thích lên núi.
Nó tính lên
núi tu mau chứng quả.
Bác Hai nói:
– Đức
Thầy không phải dạy tu thấp đâu, mà Ngài dạy
tu cho kịp thời cơ. Cháu từng học ở nhà
trường cũng biết; khi đi thi, thầy cô thường
dặn bài nào dễ làm trước, câu hỏi nào dễ
đáp trước. Nếu cứ lo giải đáp bài khó,
chừng măn giờ cái khó làm chưa xong, cái dễ th́
chưa làm, thế là hỏng!
Hội này
là hội thi đấy!
"Thiên
Đ́nh lịnh mở hội thi". ( ĐT).
Nên cái ǵ
trong tầm tay ḿnh cứ làm xong đi! Như ơn cha nghĩa mẹ, cḥm xóm,
đồng bào nhơn loại đó, hăy tu coi cho được
sẽ có điểm, vậy mới kịp ngày lập hội.
Sám giảng
có câu:
"Đền
nợ thế nghĩa ân trọn vẹn,
Chừng
lập đời khỏi thẹn tấm thân".
Chớ
mong t́m cái cao xa mà lỡ cuộc!(
Có lần
Bác ghé nhà người chị thăm chơi. Cơm sáng xong
Bác kiếu về.
Chị ấy
nói:
– Mới
ăn cơm rồi không nói ǵ hết, về sao?
– À! Để
tôi nói chuyện này chị nghe:
Bữa
đó có hai cô gái đi đàng trước, anh bạn tôi
đi sau, nghe mấy đứa nói với nhau:
– Mầy
nữa có chồng, chỗ nào bà già ăn chay trường mầy bái tổ rút lui lẹ lẹ
nhen!
– Sao vậy?
Cô kia hỏi.
– Mấy
bà ăn chay trường khó dàng trời mây đi!
Thuật
đến đây Bác Hai nói với chị chủ nhà:
– Thôi
để tôi rút lui lẹ lẹ nhé!
Chị
cười đáp:
– Dạ
được, chuyện kể đó đủ bữa
cơm rồi!!(
Một cư sĩ hỏi Bác:
– Đức
Thầy có chỗ dạy:
"Sớm
với chiều gắng chí nguyện cầu
Th́ mới
được ṭa chương dựa kế".
Chỗ khác
Ngài lại dạy:
"Tu
không cần lạy cần qú,
Ngồi
đâu cũng sửa vậy th́ mới mau".
Vậy phải
theo hai câu nào mới đúng?
Bác nói:
– Theo hai
câu sau mới chánh, c̣n sự cúng lạy chỉ là điều
phụ thuộc:
"...
Cúng với lạy khó trừ cho đặng" ĐT).
Nó là
điều phụ thuộc để nhắc nhở ḿnh
nhớ bổn phận mà thôi!
Tóm lại
phải theo hai câu sau, nhưng mà nên xét kỹ xem, có làm biếng
th́ sửa ngay.
"Ngồi
đâu cũng sửa..." là vậy!
– Thế
là không thể bỏ câu nào cả! Cô nói.(
Một
hôm nói chuyện với các bạn, trong bàn có một cư sĩ
mà Bác không quen lắm. Câu chuyện đưa đến chỗ
Bác nói:
– Muốn
vớt kẻ đắm thuyền, ḿnh phải biết lội
mới được.
Chú cư
sĩ ấy bẻ:
– Như
có đứa bé té xuống mương cạn, nước
chỉ tới bụng thôi! Tuy nhiên đối với nó cũng
nguy hiểm đến tính mệnh. Ḿnh nhảy xuống vớt
nó lên, đâu cần phải biết lội?
Thấy
chú cư sĩ quá nệ danh từ, không thông cảm ư
người đối thoại. Bác thuật thêm câu chuyện:
– Chú nói vậy,
tôi nhớ hồi mới tiếp thu, có mấy chú Bộ
đội muốn lội qua con rạch nhỏ, nên hỏi
thăm ông lăo ngồi bên bờ:
– Bác
ơi Bác! Rạch này lội qua được không Bác?
Ông lăo
đáp:
–
Được, người ta lội qua hoài có ǵ đâu?
Thế là
mấy chú Bộ đội xăn ống quần lên lội
qua độ một mét, hụt chân nước tới cổ,
hoảng hồn ḅ lên bờ càu nhàu:
– Vậy
mà Bác bảo lội được!
Ông lăo nói:
– Cứ
phóng đại qua đi chừng một sải là tới
mé bờ bên kia hà!
Mấy
chú Bộ đội trách:
– Giời
ơi! Bơi mà Bác gọi là lội th́ chết tụi con rồi!
Mọi
người cười x̣a; đó là không thông cảm danh từ.
Cái Bác muốn
nói ở đây là:
"Tập
cho ḿnh bơi lội thật hay,
Mới có
thể vớt người ch́m đắm". (TS)
Lẽ
đương nhiên phải vậy. Chú cư sĩ kia lại
kéo qua việc lội dưới mương cạn thế
là hết nói!
Qua chuyện
trên, Bác Hai thấm thía được hai câu giảng của
Đức Thầy:
"Nền
đạo đức ta bày quá cạn
Mà
dương gian c̣n gạn danh từ".(
Một
hôm nói chuyện với các cháu về cái khổ nằm ở
trong ḷng ḿnh, khỏi phải lo đổi thay ngoại cảnh.
Rồi Bác đưa ra câu chuyện:
– Bác có một người bạn mang một nỗi khổ tâm cực kỳ nghiêm trọng về
vấn đề gia đ́nh. Anh quyết định tự
vận, đêm ấy anh viết thư tuyệt mạng
xong, vừa bưng ly độc dược lên uống, anh
chợt nhớ đến mấy người bạn
cư sĩ ở núi Cấm. Anh liền nghĩ lại:
– Thôi, kể như ḿnh đă uống và đă
chết rồi! Mai ḿnh đi tu quách cho xong, ai làm ǵ đó th́
làm.
Hạ quyết
tâm xong, ḷng anh rất yên ổn.
Sáng hôm sau
anh lên núi Cấm tu. Xế chiều, anh em kéo nhau lên vồ Bồ
Hong ngồi nh́n xuống núi, anh nói:
– Hồi
hôm, nều tôi uống ly nước đó th́ bây giờ
đă chôn cất xong rồi, ai về nhà nấy, riêng ḿnh
th́ nằm dưới ḷng đất lạnh, việc đời
th́ vẫn cứ trôi qua!
Bác kết
luận:
– Nỗi
khổ đến tự vận không phải là nhỏ, thế
mà anh chỉ đổi quan niệm thôi (kể như ḿnh chết
rồi) tự nhiên hết khổ, bước sang một
giai đoạn khác như trở bàn tay.
Th́ ra cái
khổ nằm trong ḷng ḿnh, chứ không nằm trong cảnh.
Trường hợp của anh bạn trên hoàn cảnh vẫn
c̣n y mà anh được yên
tâm.
Ngay lúc
đó có một cháu cư sĩ
lẹ miệng nói:
–
"Mượn cảnh tịnh cho ḷng thanh tịnh
Chưa phải
là chơn chánh pháp môn".(TS)
Ông ấy
tu như vậy có đúng không?
Bác than:
– Thôi! Vậy
là cháu phụ tôi rồi! (
Một hôm Bác ghé thăm chú Tám, người
bạn cư sĩ. Gặp Bác chú liền than phiền:
Thiệt!
Bây giờ không biết sống làm sao cho yên, nay bắt mai thả hoài!
Bác nói:
– Thôi,
"sống như lục b́nh" vậy! Có trôi đâu, tấp
đâu thây kệ, lục b́nh đâu có quyền đ̣i hỏi
một bến đỗ an
toàn. Chỉ một lượn sóng nhỏ, một làn gió nhẹ cũng đủ làm
nó tan tác. Thế mà nó vẫn nẩy nở và trổ bông
được. Vậy là nó đă thể hiện được
sức sống của nó rồi. C̣n ḿnh sống giữa biển
trần đầy sóng gió cũng thế. Đâu ai chịu
cho ḿnh một bến đỗ an nhàn! Thôi th́ kiếp phù
sinh có truân chuyên trôi giạt thế nào cũng mặc. Điều
quan trọng là làm sao tâm hồn ḿnh trưởng thành và
thăng hoa là được rồi. (
Có một
đồng đạo hỏi:
Sao có
người tu hạnh rất cao, thấy dễ nể, rồi
ít lâu lại sa ngă, bỏ đạo?
Bác
đáp:
– Không cánh
mà tung ḿnh lên để bay th́ phải rớt thôi!
– Có
người tu thật tinh tấn, ít lâu lại lui sụt,
giải đăi! Sao vậy?
– Đi
nhón gót th́ đi chơi được ít ṿng chứ đi
lâu dài sao được!(
Một vị
nữ tu xuất gia ở chùa.
Cô bị đau tim, con nhà nghèo, học vấn kém. Cô hay tủi
thân, mặc cảm vô phước nên cứ buồn khóc
hoài! Đồng đạo khuyên lơn, cô lại càng khóc
nhiều hơn!
Một hôm Bác đến chơi, cô trụ
tŕ tŕnh bày sự t́nh và dẫn cô ra nhờ Bác khuyên
giùm, biết đâu có duyên giúp cô bớt khổ
được.
Bác nói với
cô ấy:
– Ờ!
Khóc được cứ khóc, mà thay v́ khóc cho bản thân
ḿnh, nên khóc giùm cho kẻ khác, ḿnh sẽ hết khổ. Sự
thật dù định mệnh có khắt khe đến
đâu, nh́n kỹ xung quanh ḿnh vẫn c̣n có biết bao
người đáng khóc hơn, đau khổ hơn. Khóc
thương cho kẻ khác, cháu sẽ được niềm
vui.
Nh́n ra sân
chùa thấy tượng Quan Thế Âm lộ thiên tay cầm
tịnh b́nh, tay cầm nhành dương liễu, Bác nói tiếp:
– Giọt
nước mắt vị tha là giọt nước cành
dương, nó rưới tan những ưu sầu phiền
năo. C̣n giọt nước mắt khóc cho bản thân là giọt
lệ đắng cay! Tánh hay khóc th́ khóc giùm cho người
ta, ḿnh sẽ hết khổ.
Ít lâu sau,
có mấy cháu gái gặp Bác cho hay;
– Nhờ
Bác khuyên mà cô ấy dạo này bớt khóc nhiều lắm rồi,
cô mừng lắm! (
Có người
hỏi:
– Sám giảng
có câu:
"Nh́n
Phật giáo mà t́m cái lư
Coi tại
sao ta phải tu hành".
Vậy tại
sao ta phải tu?
Bác
đáp:
– Câu
đó không phải để t́m giải đáp chung mà mỗi
người nên tự hỏi và tự trả lời. Câu trả
lời cũng thay đổi theo hoàn cảnh và tŕnh độ
tiến hóa của mỗi cá nhân. Có người buồn việc
nhà, thất vọng hoặc sợ tận thế... rồi
phát tâm tu, như Bác Hai v́ bệnh lao phổi tuyệt vọng
mới tu. Rồi thời gian qua, lời giải đáp cũng
thay đổi theo sự trưởng thành của ḿnh.
Hiện
nay Bác Hai tu không v́ tuyệt vọng nữa, mà v́ thấy
đường tu rất đẹp! Tu là hạnh phúc, cho
nên vẫn theo đuổi việc tu hành. Và nếu ngày mai
trưởng thành hơn nữa, câu trả lời sẽ
khác và xác thực hơn! (
Có mấy
cháu t́m đến học hỏi kinh nghiệm tu hành với
Bác Hai.
Bác thường
nói:
– Thật
ra Bác không giỏi ǵ hơn mấy cháu đâu! Có chăng Bác
hơn ở chỗ Bác học với mấy cháu nhiều
hơn mấy cháu học với Bác.
Mấy
cháu hơi hoài nghi lời nói đó, nhưng đấy là sự
thật. Cái khôn ngoan hay cái sai lầm quê dốt của kẻ
khác, đều là bài học quí cho ḿnh. Có điều cần
phải nhận ra được những bài học ấy.
"Nhận
được cái ngu là khôn
Nhân
được cái quấy là phải ".(
Hồi
trước lúc c̣n ở chùa Từ
Quang, Bác có làm bốn công lúa Thần Nông.
Có cô
cư sĩ đến hỏi:
– Anh làm
lúa có xịt sâu không?
– Có chứ!
Bác đáp.
– Xịt
vậy có tội không?
– Tội
chứ, giết người ta mà!
– Tội
sao anh làm?
– Không làm,
để người khác làm ḿnh ăn, đă có tội mà
c̣n thêm tánh xấu: "Tánh ăn gian" nữa! (
Có bà già
đau mê man mấy ngày rồi tỉnh lại. Bà nghe người
xung quanh bàn tán: "Có người chết rồi bị ma
nhập xác, sống lại ăn uống thời gian chừng
ngả ra chết là śnh lên, gịi lúc nhúc". Thế nên bà bàng
hoàng, ngờ vực, lo ngại không biết ḿnh đây là
người hay là ma quỷ nhập. Thậm chí con cháu về
đêm cũng ơn ớn bà nữa! Bà đem tâm sự than
văn với Bác. Bác giải thích:
– Nếu
chị biết sợ, vậy là chị chớ ai!
Nói thế
mà thấy bà vẫn chưa yên tâm, Bác đổi lối dẫn
dụ khác:
– Thôi kể
như ḿnh là ma đi! Ma hay quỷ không phải là vấn
đề, miễn ḿnh c̣n biết niệm Phật, sợ tội
phước, lo tu hành là đủ rồi.
Đức
Thầy có dạy:
"Dẫu
Tiên, Phàm, Ma, Quỷ, Súc sanh
Cứ nhứt
tâm tín nguyện phụng hành
Được
cứu cánh về nơi an dưỡng..."
Như vậy
dù ḿnh là người hay ma quỷ cũng chẳng sao! Miễn
người c̣n biết tu hiền niệm Phật là
được rồi!
Nghe tới
đó bà mỉm cười có vẻ an tâm lắm! (
Có cháu
cư sĩ thường đến mua sách ở một sạp
sách bán sold (thanh lư) tại Thành phố và quen thân với chủ
sạp. Một hôm nó đến đó t́m mua sách, chợt có
người khách cũng quen với chủ sạp ghé vào. Gặp
nhau họ bàn bạc về vấn đề tôn giáo một
hồi. Cuối cùng người khách nói:
– Đạo
Phật chủ trương làm lành!
Chủ sạp
bác:
– Không,
đạo Phật không chủ trương làm lành.
Câu chuyện
đến đây th́ người khách kiếu đi.
Cháu cư
sĩ về nhà trọ mà ḷng cứ măi bứt rứt, đến
sáng thay v́ ra bến xe Miền Tây nó quay lại sạp sách
hôm qua.
Chủ sạp
hỏi:
– Ủa!
Anh bảo hôm nay về, sao c̣n trở lại?
Cư sĩ
đáp:
– Hôm qua,
nghe anh với ông khách bàn luận về "Đạo Phật
chủ trương và không chủ trương làm lành"
đó! Tôi chưa thỏa măn, v́ nói như vậy chưa
đủ.
Người
bán sách hỏi:
– Vậy
theo anh, phải nói làm sao mới đủ?
– Theo tôi,
đồng ư với anh là Đạo Phật không chủ
trương làm lành, nhưng hễ làm ra, đều là lành cả!
Người
bán sách tươi cười, gật đầu tỏ ư rất
hài ḷng. Cháu cư sĩ nói tiếp:
– Vậy
là mai tôi có thể về.
Chuyện
trên được kể lại cho người bạn Bác
Hai nghe. Anh ấy nói:
– Tôi cũng
vậy, có lần trả lời lỡ một câu, mà không ngủ
được! Hôm ấy, có mấy cháu gái đến
thăm tôi. Nó than văn việc làm ăn thất bại, lỗ
lă và nói sự tổn thất nhiều mặt nặng nề
do sự túng quẫn gây nên. Chúng
kết luận:
– Mất
tiền là mất tất cả, phải hôn Bác?
Tôi trả
lời:
– Ừ!
Câu chuyện kết thúc. Trời tối, mấy cháu về
nhà quen nghỉ. C̣n lại một ḿnh, tôi ôn câu chuyện
đàm luận với mấy cháu ban năy, bỗng nhớ lại
việc ḿnh tán thành câu nói "Mất tiền là mất tất
cả" là sai rồi! Thế là tôi ngủ không yên, khoảng
bốn giờ sáng, tôi chống gậy lần ṃ đến
nhà quen mà mấy cháu nghỉ trọ, để đính chính.
Gặp chúng nó tôi nói: “Câu nói
"Mất tiền là mất tất cả" mấy cháu
hỏi đêm qua, Bác ừ là sai, không đúng đâu! Mà chỉ
có:
"Mất
Đạo mới là mất tất cả"
Bấy giờ
ḷng tôi mới yên! (
Có đồng
đạo hỏi:
– Sao tu
hoài không thấy tiến, không hết tham?
Bác nói:
– V́ không
trau sửa tấm ḷng, chỉ đổi đối tượng
nên tu hoài cũng vậy. Hồi chưa tu th́ ham quyền thế,
tiền của. Bây giờ tu th́ tham phước đức,
mong cho mau thành Phật, thành Tiên, đấy cũng là ḷng
tham thôi!
Đổi
đối tượng chứ không đổi ḷng tham, có
khi c̣n tham hơn. Thế nên, tu hoài mà không hết tham vậy!
(
Bác quen với
mấy cháu làm giáo viên. Tụi nó thuật:
– Có một
cô ở gần nhà luôn than văn:
"Tôi là
người khổ nhất trần gian!"
Bác cũng
không hỏi xem khổ cái ǵ mà dữ vậy!
Ít lâu sau,
có dịp Bác ghé lại đó chơi. Mấy cháu nói:
– Cái cô mà
có lần tụi con nói với Bác là khổ nhất trần
gian đó! Bây giờ hết khổ nhất rồi.
– Sao vậy?
Bác hỏi.
– Bởi
có lần cổ đi vô trại ruộng, bên dưới
kinh, tại đó chiếc xuồng cà rèm của hai vợ
chồng nghèo lắm! Người vợ c̣n ôm con đỏ,
mà họ cứ cắn đắng, gây gổ nhau luôn.
Tối nọ,
không biết xảy ra việc ǵ mà ông chồng đánh chửi
bà vợ thậm tệ, rồi đuổi lên bờ. C̣n
hăm he:
"Trại
nào mà chứa vợ tôi, tôi sẽ phá trại đó luôn!"
Bà vợ
phải ngồi dưới gốc cây ôm con khóc suốt
đêm!
Cô nói:
– Thấy
người ta thân phận đàn bà như ḿnh mà vô phước
quá! Đă nghèo đói, khổ sở,
mà c̣n gặp ông chồng chẳng ra ǵ, lỗ măng, vũ phu
không t́nh nghĩa ǵ cả! Cô thông cảm và xót thương
người đàn bà kia. Cô nghĩ phải có đem tiền
theo, cô sẽ giúp đỡ họ phần nào.
Th́ ra gặp
cảnh đó, nên bây giờ cô thấy "khổ nh́" rồi!
Nhân
đó, Bác nói nhắn với mấy cháu bảo cô ấy nh́n
xuống một chút sẽ bớt khổ, cứ nh́n lên mấy
bà hoàng hoài th́ "khổ nhứt" hà!(
Một
hôm ở chùa Từ Quang, mấy cháu thanh niên ngồi xung
quanh nền mộ "Thầy Phó" đàm luận đạo
đức.
Cùng lúc
đó có một cháu đang lăn phuy xăng ỳ ạch.
Đến khi dựng đứng phuy lên, nó nhấc không nổi!
Bác Hai chạy
lại tiếp nhưng cũng không kham v́ sức Bác có
ăn nhằm ǵ. Bác vỗ vào phuy xăng b́nh b́nh nói lớn:
– Đạo
ở đây nè! Mấy đệ lại đây tu! (
Lần
đó Bác đạp xe lên Long Xuyên. Phía bên kia lề
đường, gần cầu Rạch G̣i, thấy một
người đang bơm xe Hon đa, một tay th́ bơm,
một tay th́ với vịn cái ṿi xe, trông khó khăn lắm!
Bác muốn
chạy qua vịn giùm cái ṿi cho ông ấy bơm, mà xe trên cầu
cứ đổ xuống dốc ồ ạt, rất khó
qua. Bác đành đạp xe đi luôn! Đi đă khá xa mà
trong ḷng vẫn c̣n ray rứt.
Bác tự
nghĩ, phải lúc năy ḿnh quyết định không ngại
khó, qua giúp người th́ đẹp biết mấy! Chuyện
dù không đáng, nhưng thể hiện được t́nh
người. Sự tương trợ đúng lúc cần dù
nhỏ, lớn cũng là niềm vui vô hạn!
Hôm nay ḿnh
bỏ lỡ một dịp lên Thiên đường rối
đấy! (
Một
hôm, Bác cúng xong, nảy ra một ư nghĩ bèn nói với
người bạn ở chung nhà:
– Lẽ
ra mỗi ngày ḿnh phải có một bài nguyện mới. Mới
ở đây không phải đặt ra bài nguyện khác, mà
là khi đọc bài nguyện, ḷng ḿnh phải thiết tha
như mới phát nguyện lần đầu vậy. Chứ
không phải nguyện như học tṛ trả bài! (
Có cô ở
Long Xuyên nói với Bác:
– Anh hai giải
giùm thế nào là Niệm Phật Bản Lai? Tôi nghe thấy
huynh kia bảo xoay cái niệm vô trong làm sao đó mà tôi không
hiểu nổi!
Bác nói:
– Tôi không
biết niệm theo lối đó!
Chừng
Bác kiếu về, cô ấy nói:
– Mua bán
nhiều lúc cũng phiền ghê! Cúng xong, ngồi niệm Phật
cũng không yên, người ta cứ kêu mua đồ hoài, vừa
xả ra bán, mới ngồi lại th́ người khác kêu nữa!
Mà nghĩ cho cùng cũng tại ḿnh bày buôn bán nên mới có cảnh
này chứ sao! Nhưng tôi trong cảnh mẹ góa con côi, mà làm
ruộng, làm sao nuôi con ăn học nổi!
Nghe cô than
như vậy, Bác nói:
– Hồi
sáng cô hỏi việc niệm
Phật bản lai, tôi không trả lời, v́ thật ra tôi
không biết cái vụ niệm xoay vô, xoay ra sao đó; c̣n bây
giờ để tôi nói niệm Phật bản lai cho cô nghe
nhé!
Mỗi
khi niệm danh hiệu Phật, cô phải nhớ luôn đến
đức Từ, Bi, Hỷ, Xả của Phật đề
ḷng ḿnh nương theo đó mà được thanh tịnh,
mà ứng dụng tinh thần từ bi ấy vào trong đời
sống.
Bấy giờ,
người ta có kêu lúc cô đang niệm Phật, cô lấy
ḷng Từ Bi Hỷ Xả ra để xử sự, tiếp
đă vui vẻ, mua bán nới nang, chẳng những có t́nh
nghĩa mà việc làm ăn cũng phát đạt. Bán xong,
ḿnh tiếp tục niệm nữa, như vậy vừa niệm
Phật vừa có lợi. Nếu chấp ở chỗ tiếng
niệm Phật phải dính liền, có người kêu tức
bị đứt đoạn. C̣n niệm Phật như
trên th́ không bị đứt, mà c̣n có lợi ích thiết thực
nữa.
Sau này,
trên Chắc Cà Đao có vợ chồng chú Út, họ rủ
nhau tu ḱnh. Khuya ông cúng xong, ngồi niệm Phật, c̣n thím
Út phải gánh rau cải ra chợ bán. Thím nghĩ buồn v́
thân phận đàn bà thua thiệt quá!
Có một cháu, biết câu chuyện niệm
Phật bản lai nói trên, đem thuật lại cho thím Út
nghe. Từ đó, Thím hoan hỷ lắm! Khuya thím vui vẻ
gánh cải ra chợ bán, thím c̣n nói thầm (sau này thím thuật
lại) với ông chồng: "Ông ngồi đó niệm
Phật. Ông niệm Phật chưa chắc ǵ ai nhờ, chứ
tôi ra chợ niệm Phật người ta nhờ lắm
đó!"
Công việc
không đổi, chỉ cần đổi quan niệm mà từ
thua trở thành thắng, cái bứt rứt đổi ra vui
vẻ nới nang, nhường nhịn, được
ưa mến và đắt hàng.(
Hôm nọ
Bác đi xe đ̣, chật quá phải ngồi trên mui. Bác thấy
một con gà mái đang
bươi ăn giữa lộ, xe tới nó hoảng chạy,
nhưng chạy xuôi chiều xe. Khoảng cách giữa gà và
xe cứ thu ngắn dần: 4m, 3m
rồi 2m, thấy gà sắp bị xe cán chết đến
nơi, bỗng nó tạt ngang vô lề, xe chạy trớt,
nó đứng tỉnh bơ như không việc ǵ cả!
Bác suy
tư:
– Trong
đời thường của chúng ta cũng vậy. Vói các cuộc đấu tranh vô
cùng phiền lụy, ta chỉ cần "nhẹ lách"
qua bên là được yên ổn ngay! (
Có người
nói:
– Tôi với
người ngoài th́ sao cũng được, c̣n em út, con
cháu trong nhà mà nói không nghe th́ bực tức quá! Sao vậy
anh?
Bác nói:
– Tại
"làm phách" chớ sao! Tính ḿnh là kẻ cả, bảo
kẻ dưới nó không nghe th́ tức chịu không
được! Chứ ḿnh tính nó như bao nhiêu người
khác, th́ đâu có vấn đề. Nghe th́ nó nhờ, không
nghe th́ thôi.(
Bác có
người bạn, xưa là sĩ quan, nay đă thất sũng.
Một hôm, Bác gặp mấy
anh mang h́nh thức của người tu. Qua câu chuyện
trau đổi ngăn ngắn, anh bạn hỏi:
– Thời
này, ḿnh nên tu giải thoát hay không, và tu pháp môn nào mới giải
thoát?
Bác nói:
– Thời
nào cũng cần phải tu giải thoát cả! Ngặt một điều là không có pháp môn giải
thoát.
Anh bạn
ngạc nhiên nh́n Bác.
Bác nói tiếp:
– Cũng
như không có cái kiếng biết chữ, ḿnh phải biết
chữ rồi, khi mắt bị làn th́ mua mắt kiếng về
mang để lấy chữ. Chứ không có mắt kiếng
để mang cho biết chữ. Tóm lại, không có pháp môn
giải thoát. Chỉ có những tâm hồn giải thoát hay
không thôi. Nếu tâm hồn cởi mở th́ hành pháp môn nào cũng
giải thoát. Nếu ḷng c̣n câu nệ, cố chấp, nhiễm
ô... th́ pháp môn nào cũng trói buộc cả! (
Có lần
Bác về thăm chú Ba, một
người bạn thân. Anh em bàn luận đạo lư
một hồi, rồi chú hỏi:
– Anh bây giờ
đang tu như thế nào?
(Ư chú muốn
hỏi xem Bác đang tu Thiền, Tịnh, Phước hay Huệ...),
Bác không trả lời việc đó, mà nói:
– Năy giờ
th́ không có tu!
Lẽ ra
câu trả lời tới đó là đủ, nhưng sợ
sau này em cháu nghe như vậy đâm hoang mang nên Bác rángg nói
thêm:
– Nếu
lát nữa có chuyện ǵ th́ tu.
Sau này nghe
chuyện, chúng tôi nhờ Bác nói thêm cho rơ vấn đề
hơn.
Bác ví dụ:
– Ḿnh
đang coi lái ghe, mà năy giờ ghe đi ngay, ḿnh không cần bẻ lái; nếu nó chinh lũi,
bấy giờ mới bẻ. Năy giờ Bác nói chuyện
đạo, tâm không nghĩ quấy th́ có ǵ để mà tu, sửa.
Nhưng nói ngắn quá, sợ em cháu sau này hoang mang nên nói thêm
"lát nữa nếu có ǵ th́ tu" là vậy! (
Một hôm, có đứa cháu là thợ may,
đến thăm và hỏi Bác:
– Con may
đồ, rồi trao hàng cho khách khác phái, con trao thẳng
cho họ được không, hay phải qua trung gian (để
xuống bàn ghế...) để người ta lấy? Hồi xưa có lệ là "nam nữ thọ thọ bất thân": Chữ thọ trước là trao, chữ thọ sau là nhận, tức nam nữ không được
nhận đồ trực tiếp, mà phải để qua
một trung gian nào đó rồi mới được nhận.
Có mấy huynh trưởng dạy con như vậy.
Nghe nó kể,
Bác cười nói:
– Chuyện
đó đă lỗi thời rồi. Đừng đặt
thành vấn đề thêm khó khăn, rắc rối. Trao
hàng làm như vậy, c̣n đo cắt mới làm sao? Hay đi xe ngồi chen chúc giữa
nam nữ th́ sao?
Thôi, việc
đời cứ tùy tiện, quan trọng là phải
"chính tâm".(
Mấy
mươi năm trước, có lúc Bác đi bán củi tràm
ờ Đồng Tháp với người bạn.
Vùng Đồng
Tháp đất khô cằn, không có cây cối, nên nhà nghèo cũng
phải rángg mua củi, chứ không quơ đâu được.
Ghe chèo
ngang một cḥi nọ, có người đàn bà ẵm con chạy
ra, kêu lại hỏi giá. Bác nói:
– Củi
100đ một mét.
Cô ấy
trả 90 đ, 95 đ, rồi 97 đ.
Bác nói:
– Chúng tôi
bán không có thách giá.
Cuối
cùng cô đồng ư mua một thước. Khi trả tiền
đếm đến 95 đ, cô dừng lại xin bớt
5đ. Bác không chịu. Cô trả thêm 2 đ và nói:
– Bớt
3 đ cho con tôi ăn bánh đi ông!
Bác muốn
cho nhưng nghĩ lại "ḿnh đi hùn với bạn,
nếu rộng răi quá cũng ngặt" nên từ chối.
Cô ấy phải trả đủ.
Xô ghe ra
chèo đi. Bác ngẫm nghĩ: "Người ta nghèo, xin bớt
3 đ cho con ăn bánh, mà ḿnh không cho; trong khi đó ḿnh định
đi buôn để kiếm vốn lên bờ tu".
Muốn
tu th́ "tu ngay đi" c̣n chờ lên bờ, xuống
nước ǵ nữa!
Chuyện
nhỏ, chớ ḷng Bác ray rứt măi đến ngày nay đấy.
Luôn luôn tự nhắc ḿnh "Hăy tu ngay hiện tại".(
Có một ông đạo nhỏ ra đời
khuyến dạy người ta tu hành. Nhiều người
đến hỏi đạo, có người hỏi:
– Làm thần
nông xịt sâu có tội không?
Đạo
nhỏ ấy đáp:
– Tội
chứ, giết người ta làm sao mà không tội!
Một người bán tiệm hỏi:
– Mua bán có
tội không?
Ông đạo
đáp:
– Mua một đồng bán 80 xu th́ không tội.
Bác Hai nghe
thuật lại chuyện ấy, Bác nói:
– Mua bán
như vậy "tội cất đầu không lên", chứ
sao không tội.
Ai không tin
làm thử coi!!! (
Có lần
Bác dự tiệc nhà người bạn. Họ đăi mặn,
có riêng một mâm chay. Đồ chay dầu nhiều, hơi
khó chịu, Bác với lấy ly bia uống ít hớp. Chủ
nhà mừng quá nói:
– Ừ, vậy
mới thông cảm chứ!
Một người bạn khác nói thêm:
– Uống
rượu không sao, miễn đừng say thôi, nếu say
là có tội, phải không anh hai?
Bác không
dám ừ v́ Bác biết họ cố ư gài ḿnh tán đồng việc uống rượu của họ. Bác nói:
– Say! Không
phải đợi chân này đá chân kia mới là say. C̣n
"nhiều thứ say lắm" mà hễ "say là có tội!".
(
Một hôm có đệ (cư sĩ)
đi Cái Dầu mua đồ, c̣n ít tiền lẻ vừa
đủ về xe. Có ông lăo tới xin, đệ không cho, mặc
dù vẫn c̣n tiền lớn v́ nghĩ ḿnh đă từng cho ông lăo này hoài,
để khi khác cho cũng được.
Đến
bến xe gặp người quen bán sinh tố, anh mừng
rỡ kéo lại đăi một ly nước. Hai người
hàn huyên một lúc, đệ
móc tiền ra trả, người bạn lại cố từ
chối. Dằn co một hồi đệ đành cất
tiền, cám ơn và giă từ.
Lên xe về,
đệ tự nghĩ ở đời có những cái ngồ
ngộ, kẻ nài xin th́ không cho, người không nhận lại
ép lấy.
Nghe thuật
lại Bác nói:
– Ừ!
Ḿnh phải suy nghĩ để hiểu được lẽ
phải mà ứng xử. Đời là trường học
lớn mà.
Bác không
nói việc đó phải làm sao, mà chỉ hoan nghênh việc
chiêm nghiệm, xét lại từng sự việc trong cuộc
sống để tiến bộ thôi. (
Một
ông bạn đến thăm Bác Sáu. Ông ấy ca ngợi hạnh
ăn ngọ, ông cho ăn ngọ là tiết kiệm
lương thực. V́ mấy năm mới ḥa b́nh
lương thực khan hiếm lắm!
Bác Sáu nói:
– Nếu
ḿnh sống không lợi ích ǵ cho ai, năm bảy ngày ăn
một bữa cũng hoang phí rồi, nếu ḿnh sống có
lợi ích, ăn một ngày 7–8 bữa cũng không hoang phí nữa.
Cũng như cái máy, nếu nó bơm nước... một ngày đốt 7 -8 lít xăng,
đâu có hoang phí ǵ. C̣n để nằm không, một tuần lễ rịn mất một
xị cũng là uổng rồi!
Thế
nên phải nhắm vào sự hữu dụng, chứ không
nên nh́n vào số lượng tiêu phí mà xét đoán lợi hại.
(
Có cháu
cư sĩ hỏi:
– Có khi
ḿnh nằm chiêm bao thấy Phật, thấy Đức Thầy,
vậy là sao, hở Bác?
Bác nói:
– Vậy
là mằm mộng chứ sao!
Nó có vẻ
thất vọng nói:
– Đành
là mộng, nhưng mỗi lần chiêm bao gặp Phật, gặp
Thầy con thấy vui lắm, tinh tấn tu hành nữa.
Bác nói:
– Th́
đương nhiên rồi, gặp mộng lành, ḷng phấn
tấn tu hành là tự nhiên, nhưng mà kích thích tố thiếu
ǵ thứ. Miên vác chà gạc rượt, ḿnh cũng niệm
Phật thắng tới vậy! (Ư Bác muốn nói, có nhiều
hoàn cảnh thúc đẩy, sách tấn ḿnh tu hành; đâu
đợi chiêm bao, mộng mị này nọ mới tinh tấn).
Bác không
đồng t́nh với việc mộng mị đó nên nói:
– Kích thích
tố dùng nhiều không tốt, chỉ khi nào suy nhược
lắm mới cần đến nó với một phân
lượng vừa phải và thời gian nào đó thôi.
Như dùng thuốc lợi tiểu hoài th́ hại thận,
dùng trợ tim hoài th́ hại tỳ.
Thế rồi,
sau này nó khùng, khùng rất nặng! Sự việc xảy ra
Bác không ân hận, v́ ḿnh không tán đồng, không vùa thêm chuyện
đó, trái lại c̣n cảnh giác nó nữa.
Vậy mà
không khỏi, âu cũng là định mệnh! (
Có người
hỏi Bác:
– Đức
Thầy là Phật sao c̣n thương ghét?
–
Thương cái ǵ, ghét cái ǵ? Bác hỏi lại.
– Đức
Thầy nói: "Ghét những đứa có ăn bỏn xẻn"
đó! Người ấy nói.
Bác
đáp:
– Thứ
đó làm sao mà thương được!
– C̣n
thương nữa: "Thương những người
đói rách lương hiền". Họ hỏi tiếp.
Bác nói:
– Chèn
ơi! Người đói rách mà c̣n giữ được
lương hiền, ḿnh không thương th́ thương
ai?(
Có một
cô và một cậu cư sĩ đă phát nguyện sống
độc thân tự kết hôn với nhau. Cha mẹ
đôi bên không nh́n nhận. Đồng đạo chẳng
ai ngó ngàng đến, kể như là người sa đọa
và làm lem ố danh dự chung của giới cư sĩ.
Nên các bậc huynh trưởng nhất định trừng
phạt, chứ không giúp đỡ, hầu làm gương
cho kẻ khác.
Bác Hai thấy
hai người ấy nguy khốn quá, nên có giúp chút ít. Thấy
thế mấy cháu thân với Bác cũng giúp theo. V́ vậy họ
bị mấy cô chú chủ trương trừng phạt
đó rầy trách, cho rằng giúp như vậy là vô t́nh ḿnh
khuyến khích người tu sa đọa. Mấy cháu nó
trách lại mấy huynh trưởng đó tu hành ǵ mà khó
quá!
Bác Hai
khuyên can mấy cháu:
– Không nên
trách lại mấy cô, mấy chú như vậy! Trừng phạt
để cho nó tởn mà cải hối! Giúp đỡ
để cảm hóa nhau. Cái nào cũng là tặng phẩm cả.
Ai có phẩm vật nào th́ cho cái nấy. (
Bác Hai và bạn
đi đám tang ông xă. Trước khi ra về, người
bạn Bác ngỏ lời chia buồn!
Thím xă khóc
sướt mướt, ông bạn ấy khuyên:
– Chú xă biết
tu hiền, chay lạt thế nào cũng được về
cơi Phật, quả vị đó không mất đâu. Thím yên
tâm, rángg lo tu hành.
Đến
lượt Bác đến chào, thím cũng khóc tức tưởi!
Bác nói:
– Tôi rất
hoan nghinh giọt nước mắt của thím. Người
bạn đường chung sống với ḿnh, chia sẻ
ngọt bùi suốt cả một
đời, giờ vĩnh biệt nhau, rưới cho
nhau vài giọt lệ, điều đó quí lắm! Tôi rất
kính mến và cảm động trước những giọt
nước mắt ấy. Nhưng tự ḿnh có đau khổ,
thím nên nghĩ rộng xót thương đến những
người góa phụ khác, vô phước hơn ḿnh.
Người ta góa bụa nghèo khổ, phải tha
phương cầu thực!
C̣n ḿnh tuy góa bụa chứ cũng ấm no.
Khi trở
về nhà, Bác thuật lại với bạn:
– Tôi không
khuyên thím xă ấy mạnh dạn để chống lại
cái buồn khổ, c̣n ca ngợi cái khổ ấy nữa.
Nhưng thím nghe lời tôi là thím hết khổ.
Anh bạn nói:
– Nghe theo
lời anh, th́ thấy ḿnh c̣n sướng hơn nhiều
người rồi mà khổ cái ǵ nữa! (
Một hôm, Bác đi nhờ xuồng của
một cháu cư sĩ đi Ḥa Hảo. Trên đường
đi, hai cậu cháu nói chuyện dài dài... Vấn đề
đưa đến chỗ thắc mắc, nó nói:
– Phải
ly gia cắt ái mới giải thoát được chứ cậu?
Bác nói:
– Cắt
ái có nghĩa là trưởng thành, vươn lên, chứ không phải là cắt ngang như
cháu cắt bông cúng Phật mỗi ngày vậy đâu. Như
hoa sen vượt lên khỏi bùn vậy, mà hễ hoa sen sắc
hương càng diễm lệ bao nhiêu, th́ ngó sen nó phải
bám sâu vào ḷng đất bấy nhiêu. Như cây, hễ hoa
trái thạnh mậu chừng nào th́ rễ bám sâu vào ḷng đất
chừng ấy. Con người cũng vậy, phải bám
vào gia đ́nh và xă hội này mà thăng hoa.
Cháu nó
không căi nhưng không hài ḷng mấy!(
Cũng
cháu cư sĩ kia hỏi:
– Cậu
hai à! Làm sao diệt được tánh tham?
Biết
cô thừa hiểu nhưng muốn trắc nghiệm lại
xem có ǵ mới lạ hơn không, Bác nói:
– Tánh tham
diệt làm sao được! Ḿnh tu c̣n tham tổ
hơn người ta mà diệt
tánh tham ǵ được!
– Ḿnh tu mà
tham cái ǵ đâu, cậu?
– Người
ta không tu th́ chỉ tham danh lợi, t́nh... ở cơi trần
này thôi. C̣n ḿnh chê là nhỏ nhen, mau tan, mau ră, lại muốn
cái ǵ vĩnh viễn trường tồn, bất sinh, bất
diệt mới chịu. Vậy là tham hơn người ta
rồi, làm sao mà diệt được! Có môn làm cho nó lớn
thêm lên.
Cô nói:
– Ngặt
ḿnh không chịu tham lớn, mà chỉ ưa tham nhỏ thôi
th́ làm sao?
Bác nói:
– Phải
rángg mà trưởng thành, trưởng thành tới đâu
th́ tánh tham lớn theo tới đó.
Ví dụ:
Hồi nhỏ ḿnh thích chơi búp bê, nhà cḥi..., ai đụng
tới là tóe lửa à! Rồi lớn lên, tự nhiên ḿnh bỏ
và lại muốn xe hơi, nhà lầu, ghế Bộ Trưởng...
lớn hơn nữa như Tổ, Phật lại muốn
thế giới là vàng ṛng và mọi người đều
là Bồ Tát cả!
Ḿnh
trưởng thành tới đâu th́ tánh tham lớn theo tới
đó, chứ diệt nó không được đâu.
Thế là
thêm một lần nữa, cháu
nó không phản đối nhưng lại cũng chẳng mấy
hài ḷng. (
Có cô giáo hỏi:
– Dạy
học, đánh học tṛ có tội
không?
Bác nói:
– Hồi ở
chùa Từ Quang, có mấy cây
xoài, tụi nhỏ hay lén thọc phá. Hễ Bác gặp là
rượt la, làm dữ lắm!
Mà hễ nghe trong ḷng nổi nóng là thôi ngay.
Cô giáo hỏi:
– Tại
sao vậy?
– Ḿnh nóng
lên là có rượt có la, c̣n hồi năy tuy rượt, tuy la
chứ không có rượt la.
Trong Pháp Bảo
Đàn nói:"Tối ngày làm đủ các việc mà chẳng
có chỗ làm" là vậy đó.
Có đứa
cháu chạy honda ôm. Vợ chồng nó có một thằng con thôi; mà thằng bé cũng
quậy phá lắm!
Một
hôm, nó quấy rầy ǵ đó, ba nó bắt cúi xuống, lấy
roi ra xong, bỗng bảo:
– Thôi
đi chơi đi!
Thằng
bé mừng quá bỏ chạy. Vợ nó nói:
– Sao anh
không đánh nó vài roi, cho nó chừa, c̣n bảo nó đi
chơi nữa!
– Giận
quá nên không đánh!
Xử sự
như vậy là đẹp lắm chứ! V́ quá giận th́
đ̣n sẽ phản tác dụng, nó trở thành đ̣n thù,
chứ chẳng phải răn dạy nữa. Và vô t́nh làm
cho trẻ con tập nhiễm tính nóng giận, dữ dằn
của ḿnh nữa. (
Một cô dạy mẫu giáo đến hỏi
Bác:
– Mấy
chị cư sĩ dạy con: "Ḿnh tu, đừng nên gần
những người tu giải đăi, những người
kém đạo đức hoặc không tu. V́ "gần mực
th́ đen, gần đèn th́ sáng". Chỉ nên gần gũi
những người tinh tấn, v́ họ có thể trợ
duyên cho ḿnh tu tiến. Mấy chị dạy con như vậy
Bác thấy sao?
Bác cười
nói:
– Hay!
"Rằng hay th́ thật là hay,
Nghe qua ngậm
đắng trêu cay thế nào!"
(Kiều)
Nghĩ
như vậy th́ người đạo cao đức cả,
ai mới chịu gần gũi với ḿnh đây! (
Một
hôm, Bác Hai nói chuyện với Bác Sáu, bạn thân của Bác:
– Trời
sanh không có ǵ dư! Anh Sáu! Cả tánh xấu, anh cũng khỏi
bỏ nữa, miễn anh xài đúng chỗ th́ tánh xấu cũng
tốt.
Bác Sáu rất
sáng ư, liền nhận ngay:
– Đúng
rồi! Hồi hôm tôi xem tivi chuyện "Bên cầu dệt
lụa" tức "Trần Minh khố chuối". Lúc
Trần Minh đậu trạng, vua muốn gả công chúa
cho, nên bảo một vị thượng quan điều
tra lư lịch Trần Minh. Vị thượng quan này kêu hai
người thí sinh đồng hương với Trần
Minh để điều tra gián tiếp. Hai người
này thi rớt và rất ghét Trần Minh, nghe quan hỏi về
Trần Minh, chúng nó liền bêu xấu:
– Bẩm
thượng quan! Thằng Trần Minh xấu lắm! Xài
không được đâu! Nó nói láo dữ lắm, mẹ nó
mà nó c̣n dám nói láo nữa!
– Nó nói láo
làm sao với mẹ?
– Bẩm!
Con biết rơ, bữa đó nó chưa ăn cơm. Nó xin
được một bát cơm đem về cho mẹ, mẹ
nó hỏi:
Con ăn
cơm chưa? Vậy mà nó dám nói "ăn rồi" đó thượng quan!
Thuật
đến đây Bác Sáu cười nói:
– Tôi thích
tác giả đặt đoạn đó lắm!
Bác Hai tiếp
lời:
– Nói láo là
một trọng giới trong nhà Phật, là một tính xấu
ngoài xă hội nhưng Trần Minh không xấu, không phạm
giới. Trái lại ai cũng kính nể, thán phục lời
nói dối đó.
Thế
nên không tính nào xấu hay tốt cả.
Dùng
đúng chỗ th́ tính xấu cũng tốt, ngược lại,
xài không đúng chỗ, tính tốt cũng thành xấu!
Như
đức "khoan dung" là đức tánh tốt tuyệt
vời, nhưng khoan ra (thứ người) mới quư; c̣n
khoan vô (thứ ḿnh) th́ tệ hại vô cùng!
"Thứ
người nghĩa nọ rộng lan,
Thứ
ḿnh tội lỗi ngày càng thêm cao". (TS)
C̣n cái tánh
"vạch lá t́m xâu" moi móc lỗi lầm của thiên hạ,
là tính rất xấu, tính tiểu nhơn. Nhưng ngược
lại, moi móc xét nét lỗi lầm của chính ḿnh là quân tử.
(
Một
hôm Bác ghé thăm quư đồng đạo ở chùa B́nh
Minh. Bác thuật lại chuyện một người bạn,
bị giam ở trong tù. Ông ấy kể:
– Cứ mỗi
ngày tới ngày thăm nuôi th́ tên "tù chúa" kiểm xoát
từng giỏ xách đồ ăn. Giỏ nào có đồ
ngon (gà quay, thị kh́a...) th́ hắn lấy chia nhau ăn.
C̣n đồ chay hắn chừa lại, mà c̣n cấm
đàn em không được đụng đến đồ
chay của người ta.
Từ
đó người bạn Bác viết thư về bảo
người nhà gửi đồ chay cho ông, đồng thời
ông phát tâm tu luôn.
Chuyện
đến đây Bác liên tưởng đến chuyến
đi tàu Chợ Mới – Long Xuyên.
Khi tàu
đi ngang trạm Cà Mau (Ông chưởng) bị lính gọi
lại xét và bắt 10 giạ cám (thời cấm lưu
thông lúa gạo). Hàng không đem lên, cô chủ cám cứ
đi theo năn nỉ măi. Cuối cùng thấy không đáng
ǵ nên lính cho đi. Lúc này trời sáng hẳn, cô chủ cám xuống
hầm gặp Bác, vừa mừng vừa nói:
– Chú hai
ơi! Con niệm Quan Thế Âm hết biết!
Tàu chạy
đi, Bác suy nghĩ, cười một ḿnh. Lúc xưa, Ban
Hoằng Pháp của Giáo hội khuyên người ta tu niệm,
chưa chắc ǵ người ta niệm tha thiết bằng
tụi này nó làm khó.
Bác kết
luận:"Bồ Tát làm Phật sự, Quỷ
Vương cũng làm Phật sự vậy".
Mấy
cháu ở chùa nói:
– Bồ
Tát làm Phật sự người ta thương. quỷ
vương làm Phật sự người ta ghét.
Bác nói:
– Bởi
vậy Đại Bồ Tát mới dám làm quỷ
vương, chứ Tiểu Bồ Tát không dám làm quỷ
vương đâu!
Từ
đó nơi chùa B́nh Minh có câu thành ngữ: "Đại Bồ Tát độ!".
Ai tu hành lôi thôi các bạn hay nhắc khéo:
– Chắc
chờ Đại Bồ Tát độ quá!(
Có cháu hỏi:
– Bác Hai
già yếu, cô thân, bệnh hoạn, nghèo túng vậy Bác có thấy
buồn không?
Bác
đáp:
– Có lần
Bác mua khoai, người bán cân rồi c̣n lại vài củ họ
bảo:"Thôi cho ông luôn đó!". Những củ cho thêm
này hồi năy ḿnh chê, lựa bỏ lại, thế mà bây giờ
thấy nó tốt, v́ của cho thêm đâu có tính tiền.
Bác nghĩ
đời sống ḿnh từ đây kề về sau kể
như là Thượng Đế cho thêm, nên dù nó có đen tối,
èo ọt ǵ cũng quư. Bác tự an ủi thế và cám ơn
thượng đế.
Hồi
c̣n trẻ, mỗi ngày qua, Bác thấy tiếc nuối v́
đă chết đi hết một ngày; bây giờ già rồi
ngược lại, mỗi lần trong bóng hoàng hôn buông xuống,
Bác mừng tự nhủ: "Vậy là ḿnh sống thêm
được một ngày nữa!". (
Một
hôm ông Jorba, gặp một ông lăo trồng cây hồ đào
(loại cây lâu năm), ông ta hỏi:
– Nội
ơi! Nội năm nay bao nhiêu tuổi rồi?
Cụ già
ngẩng đầu lên cười đáp:
– Lăo sống
như không bao giờ chết.
– C̣n tôi sống
như sắp chết đến nơi vậy. Jorba nói.
Hai lối
sống kể trên đều tuyệt vời cả. Ở
phương diện nào đó ḿnh phải sống như
không bao giờ chết; và ở một mặt khác, ḿnh phải biết sống
như sắp chết đến nơi vậy. (
Có lần
Bác đi thăm người bạn, ngày về là lúc trời
băo nhưng ḿnh có vấn đề phải về thôi.
Mấy
người bạn cầm nán lại nhưng Bác quyết
đi, dù mưa cũng đi.
Bác dẫn
xe đạp ra về, nhưng may, ngày hôm ấy về
đến nhà không bị mưa. Tắm xong lên giường
nằm, Bác nghĩ lại hôm nay ḿnh đi dưới trời
mưa gió mà ḷng b́nh an như ngày đẹp trời vậy
bởi ḿnh sẵn sàng chấp nhận.
Bác suy rộng
ra, nếu đối với
mưa gió của đời ḿnh, mà ḿnh có tâm trạng sẵn
sàng như vậy, chắc là sống yên lành, hạnh phúc lắm.
(
Có một
cô bán thuốc tây ở Cái Dầu, trường trai tu hành
hơn ba mươi năm nay, gặp Bác, cô than văn:
– Cháu c̣n
chút ray rứt là mấy đứa con của cháu nó cũng
hiền lành ăn tương vậy, nhưng nó ham chưng
dọn theo đời lắm, nói nó không chịu nghe theo.
Không biết làm sao khuyên cho nó nghe vậy chú!
Bác
đáp:
– Nó không
nghe là phải đó! Con đường ḿnh đi suốt
ba mươi năm mà chưa thể hiện được
ǵ cho bản thân cả! Bây giờ bảo nó theo ḿnh, nếu
nó nghe theo là nó mù quáng, không biết suy xét.
– Vậy
tại ḿnh thiếu đức
hả chú?
– Không, tu
hiền chay lạt đâu có thiếu đức, tại
ḿnh thiếu chứng minh cho nó thấy "tu là hạnh
phúc" đó thôi. Nếu chứng minh được trên
thực tế tu là hạnh phúc, th́ cô cấm nó tu, nó cũng
lén cô mà tu nữa, cô không chỉ dạy, nó cũng ŕnh xem cô
tu làm sao đặng bắt chước.
Cô ấy
gật gật đầu:
– À! Có lẽ
vậy. (
Một
hôm, bác Hai gặp lại anh bạn trước kia là người
trong đạo. Sau ngày giải phóng, xét gia đ́nh anh có thân
nhân, hay công trận ǵ đó với
Cách Mạng nên anh được cất nhắc làm cán bộ
địa phương.
Qua lời
chào thân mật và đổi trao vài câu xă giao, anh ấy định kiếu
từ v́ đang bận công tác. Chợt nhớ điều
ǵ, anh nán lại hỏi Bác:
– Tôi có thắc
mắc này, anh em tôi hỏi thiệt anh nhé!
Bác nói:
– Cái ǵ mà
rào đón giữ vậy, hỏi th́ cứ hỏi. Biết
th́ tôi nói, không th́ thôi, có ǵ đâu.
Anh ấy
hỏi:
– Theo anh
thấy, giữa vô thần và hữu thần, ngày chung cuộc
ra sao? Chỗ này là t́nh anh em, tôi hỏi thật, chứ không
phải cán bộ hỏi đâu nhé!
Bác cười
nói:
– Cách nay
mười hôm, tôi có việc
đi qua Nhơn Mỹ. Có một cô nhờ tôi giúp ư kiến
giải quyết một vấn
đề khó xử. Cô nói:
– Tôi theo
đạo Cao Đài, ông nhà theo đạo Ḥa Hảo. Từ
khi có chồng đến giờ, nếu ở bên này th́
ăn chay, cúng lạy, đọc bài nguyện theo Ḥa Hảo;
hễ về bên ngoại mấy nhỏ th́ tôi ăn chay cúng
lạy đọc kinh theo Cao Đài. Gần đây có mấy
anh em trong đạo biết chuyện đó nên khuyên tôi:
"Theo bên nào một bên thôi,
đi hàng hai như vậy nữa không ai nh́n nhận hết là hỏng đấy!"
Nghe như vậy tôi hoang mang, phân vân không biết nên bỏ
bên nào, theo bên nào! Vậy anh giúp giùm ư kiến.
Tôi nói với
cô ấy:
– Theo ư
riêng của tôi th́ "Tôn giáo không thành vấn đề".
Vấn đề là t́nh người với nhau, ở
ăn cho có nhân hậu, thủy chung. Vấn đề là
nhân quả, gieo nhân nào hưởng quả nấy, chứ
tôn giáo không quan trọng lắn đâu. Nếu cô theo đạo
Phật mà cô làm hung, rồi Phật
bênh cô sao?
Đức
Thầy có dạy: "...Đừng ỷ lại vào sự
cứu vớt của Thần Thánh, đừng ỷ sự
bênh vực của Thầy ḿnh. Luôn luôn lúc nào cũng nhớ câu Nhơn Quả
của Phật dạy, nếu Nhơn toàn thiện th́ Quả
cũng sẽ do đó được toàn thiện vậy".
"...Liên
hoa có thiện được lên,
Dù người
ấy chẳng mang tên đạo ǵ.
Mang tên
đạo mà đi làm dữ,
Thua
người lành chẳng ở phái chi...".
(TS)
Tóm lại, tôn giáo này, tôn giáo kia, hữu
thần, vô thần không thành vấn đề, mà vấn
đề là "gieo nhân nào hưởng quả nấy".
Đến
đây Bác nh́n người bạn cán bộ và nói:
– Tôi thuật
chuyện này để trả lời luôn câu hỏi của
anh đấy.
Cuộc
trao đổi chấm dứt. Ông bạn ấy có vẻ
hài ḷng lắm. (
Có mấy
cháu nữ sinh mến Bác lắm. Hôm đó mấy cháu lựa
đậu nành, Bác nằm vơng bên
cạnh.
Mấy
cháu hỏi:
– Bác Hai
ơi! Có lần nào Bác nằm chiêm bao gặp Phật hôn?
– Không, Bác
trả lời – Nhưng ban ngày Bác gặp Phật hoài hà.
– Tụi
con hỏi thiệt mà!
– Ừ!
Ban ngày là Phật thiệt đó! C̣n chiêm bao là Phật nhăn
thuốc à!
– Vậy,
Bác Hai gặp Phật ra sao?
– Phật
hiện ra đủ hạng người hết: Già, trẻ,
trai, gái... À, có hóa ra gái model uốn
tóc nữa.
– Thế
làm sao biết là Phật?
– Biết
chứ, người nào Phật hóa ra đều làm việc
chơn chánh, nhơn từ, có lợi ích cho đời. Bên cạnh
đó Bác cũng gặp Ma Quỷ, cũng hóa ra đủ hạng
người trên, mà những người Ma, Quỷ hóa ra th́
làm những việc xấu xa tội lỗi.
Mấy
cháu cười:
– Tụi
con cũng gặp Phật nữa, Phật ngồi vơng, tay cầm
cây quạt mo.
– Vậy
là ông Địa rồi! (
Một
hôm trong đám cầu nguyện ở nhà người quen, có
đứa cháu hỏi:
Chú giải
thích giùm con câu:
"Y kinh
giải nghĩa tam thế Phật oan
Ly kinh nhất
tự tức đồng ma thuyết"
Bác nói:
– Cháu biết
lái ghe không?
– Dạ
biết chút đỉnh.
– Vậy
nghe chú thí dụ: Chú lái ghe từ
Ḥa Hảo lên Châu Đốc. Thấy vậy, cháu nhờ
chú dạy lái ghe đi Châu Đốc. Chú đồng ư.
Bắt
đầu mở dây, xô ghe ra, quay máy, bẻ tay lái qua, lại;
cháu ghi nhận từng động tác một cách tỉ mỉ cho đến khi
tới Châu Đốc.
Bấy giờ,
cháu trở về Ḥa Hảo, xuống ghe, mở dây, xô ra rồi
quay máy. Với bài bản được lập lại một cách chính xác, mà nhứt định
không đến Châu Đốc được, nó sẽ trôi
tấp ở đâu á!!!
Muốn
đến Châu Đốc th́ phải biết cách lái ghe, biết
đường nào đến Châu Đốc, rồi tùy
lúc, có thể làm y như lúc học hay khi cần có thể
làm ngược lại cũng đúng.
Tóm lại,
biết tại sao phải bẻ qua, bẻ lại như vậy,
th́ làm y cũng đúng mà làm ngược lại cũng không
sai.
– Vậy
là phải biết tại sao hở chú?
– Ừ! Nếu
không biết tại sao th́ bắt
trước y hệt cũng trật, mà ngược lại
càng trật hơn! (
Có đứa
cháu hỏi Bác:
– Có
phương pháp nào bỏ sắc dục được
không? Con nặng về sắc dục quá!
Bác hỏi:
– Bộ muốn
bỏ sao?
– Muốn
lắm mà bỏ không được!
– Đừng
hỏi phương pháp mà hỏi lại ḷng ḿnh xem, có muốn
bỏ thiệt hôn?
Hễ nếu
thiệt muốn bỏ th́ nó rớt ngay.
Bác với
lấy cái ly nói:
– Cũng
như ḿnh cầm cái ly, muốn bỏ th́ nó liền rớt,
chứ khỏi hỏi phương pháp buông ra làm sao, buông
ngón nào trước, ngón nào sau.
Hăy hỏi
lại ḷng ḿnh xem, có muốn buông không? Nếu không muốn
buông, dù người ta gở tay liệng đi, ḿnh cũng
lượm lại. (
Có cháu
cư sĩ hỏi:
– Con bị
vọng tâm quá; con niệm Phật liền hết, ít lâu
sau niệm mặc niệm c̣n
vọng cứ vọng. Con quay sang quán xét, thấy có hiệu
quả, nhưng dần dần quán mặc quán, vọng vẫn
vọng!
Bây giờ
Bác có phương pháp nào nữa không, chỉ cho con trị
cái vọng tâm?
Bác nói:
– Thôi! bao
nhiêu đó xài không hết rồi chỉ thêm cái ǵ nữa. Có
điều cháu cứ hạ thủ như vậy đi, tuy nó trật vuột
vậy chớ nó sẽ có ư.
Nhớ hồi
nhỏ, có lần Bác về quê ở nhà ông Dượng nghỉ
hè. Ông chuyên nghề đóng ghe. Bác thích xem ông làm mộc, nhất
là bào cây, trong ḷng muốn thử bào nhưng không dám.
Một hôm
ông ra vóc một cây chèo, tra
lưỡi bào xong, bảo:
– Sanh! Mày
chuốt cây chèo này coi.
Bác mừng
lắm nhưng hơi sợ, hỏi vặn lại:
– Rủi
hư làm sao Dượng?
– Không
hư đâu, nó có vóc sẵn rồi, mày bào láng lại là
được; mà có tao đây, đâu để mày làm
hư sao mà sợ.
Bác đẩy
bào trớt lớt mấy lần, Bác hỏi:
– Dượng
Bảy dạy con coi, sao bào nó không ăn.
Ông nói:
– Dạy
cái ǵ được! Đẩy đi rồi nó ăn ư.
Thật vậy,
một lát sau Bác bào được.
Mấy thằng
bạn của nó cười rộ lên, rồi day sang Bác
nói:
– Thằng
hỏi đó là thợ mộc đó Bác.
– Ồ!Vậy
càng hay. Bác nói. (
Có chú
cư sĩ chuyên về pháp môn niệm Phật. Chú tối kỵ
chữ "ái" dù là t́nh quyến thuộc cũng vậy. Chú khuyên em cháu phải dẹp bỏ
t́nh luyến ái.
Một hôm, chú ghé thăm Bác và nói:
– Nhờ
anh giúp đỡ giùm tôi một chuyện, là ḿnh làm sao niệm
Phật cho được tha thiết đây?
Bác biết
ư chú, nên nói:
– Theo ư
tôi, muốn niệm Phật thiết tha th́ phải tăng
trưởng t́nh thương!
Chú trân trối
nh́n Bác, ngầm ư hỏi v́ sao?
Bác thí dụ:
– Như
ḿnh có người thân: cha, mẹ, anh, em, chồng, vợ,
ǵ đó... rất thương mến, đang lâm trọng bệnh
hấp hối, ḿnh niệm Phật cầu gia hộ. T́nh
thương giữa ḿnh và người thân ấy tha thiết
bao nhiêu, th́ sự niệm Phật của ḿnh cũng tha thiết
bấy nhiêu.
Không phản
đối, nhưng Bác biết chú không hài ḷng.
Sau, Bác
đem chuyện trên kể lại cho vài đứa cháu nghe,
có một cháu xác nhận:
– Bác Hai
nói con rất công nhận. Lần đó mẹ con mất,
con hộ niệm; v́ thương mẹ quá, nên con niệm
Phật vô cùng thiết tha!
Từ
đó đến nay, ít có lần nào niệm Phật thiết
tha được như vậy. (
Một lần
Bác đi dự lễ giỗ, cúng xong định về liền,
đi ngang bàn nọ có mấy cháu kéo lại mời Bác uống
nước với tụi nó. Kẹt quá Bác phải ngồi
lại.
Mấy
cháu hỏi:
– Thầy
nói: "Thắng thất t́nh giữ vẹn đạo
trung". Mà sao giữ vẹn "đạo trung", hả
Bác?
Bác nói:
– Trung
đạo là con đường quan trọng, con đường
đưa đến giải thoát, nhưng có điều nó
không phải là con đường tiền chế, đă vạch
sẵn, mà mỗi người phải tự vạch lấy,
tự thắp đuốc lên mà đi. Trung đạo có nghĩ
là vừa phải, mà cái vừa phải của người
này không phải là cái vừa phải của người
kia. Cũng như ăn cơm, Bác dùng một bát thấy vừa,
c̣n mấy cháu ăn bốn năm bát mới vừa.
Thế là
cái vừa phải, không phải là cái lập thành, nó tùy theo
mỗi người. Lại nữa, cái vừa phải của
chính ḿnh ngày hôm nay, cũng không phải là cái vừa phải
của chính ḿnh ngày mai nữa. Nếu ngày mai ḿnh bị cảm,
ăn cháo mới vừa, chứ không c̣n ăn bốn
năm bát cơm được. Nên cái vừa phải, phải
lấy trí tuệ ra mà liều lượng.
Đức
Phật sau khi thuyết pháp mấy mươi năm, Ngài nói:
"Các ngươi hăy tự thắp đuốc lên mà
đi" là vậy đó.
Có một
cháu nhận được ư nghĩa đó nên nói:
Như vậy
th́ trung đạo có thể dời đổi, chứ không
phải là con đường cứng ngắc, cũng
như ḿnh đi trên ḍng sông, phải uốn khúc, quanh co theo
ḍng sông, nhưng mà phải giữ giữa hai bờ.
Bác nói:
– Không phải,
trung đạo có thể lệch một bên được.
Nó ngạc
nhiên:
– Vậy
là con chưa hiểu!
– Để
Bác giải thích một lần
nữa:
"Trung đạo có nghĩa là
quân b́nh", cho nên cháu chia cây mía ra làm hai mà chặt ngay giữa
th́ không ai thèm lấy khúc ngọn
đâu. Nên muốn cho nó quân
b́nh phải chặt khúc gốc ngắn, khúc ngọn dài.
Tùy ở
thể tích, trong lượng hay phẩm chất mà sự
phân chia có thể lệch một bên, để giữ thế
quân b́nh (Trung đạo).
Giải tới
đó, Bác chợt nhớ lại câu kinh:
"Không
phải ở giữa, mà cũng không phải ở hai bên,
đó là trung đạo". (Pháp Bảo Đàn)
Câu kinh này
lúc xưa Bác mù tịt, nay tự dưng lại hiểu ra.
(
Chú ba, một người em bạn của Bác bị đau
bụng nhào lăn! Lối xóm kẻ cạo gió, người
kiếm thuốc lăng xăng, một lúc sau bệnh mới chịu bớt.
Sau trận
đau đó, mấy người con của chú nói:
– Qua
cơn đau của ba, tụi con thấy t́nh cḥm xóm xích lại
gần hơn.
Chú ba tiếp
lời:
– C̣n ba, thấy
mang ơn tới cây cỏ nữa!
Bác Hai nghe
cha con nó nói vậy, Bác cười nói:
– C̣n tôi,
tôi mang ơn cái thân xác này lắm.
Đồng
đạo nghe qua câu chuyện đó phê b́nh:
Qua cơn
đau, mấy đứa con chú ba tiến xa, chú ba th́ kém
hơn tụi nó, c̣n ông Như Sanh th́ ích kỷ quá!
Một
người bạn Bác Hai nghe phê b́nh như vậy, nói:
– Qua
cơn đau đó, mấy đứa con chú ba tiến một
bước, chú ba tiến hơn con của chú, c̣n anh (Bác
Hai) tiến hơn cha con nó nữa.
Kẻ
khen qua, người chê lại, Bác chỉ cười vậy
thôi.
Về
sau, mấy em cháu nhờ giải rơ ư câu nói: "Bác mang
ơn cái thân này lắm!"
Bác nói:
– Phật
dạy cái thân này là nhà chứa tai họa, nào đau ốm,
nạn tai... biết bao! Đó là một lối nói, chứ
nhà Phật bảo: "Thân mạng
không nên quí trọng mà cũng không nên khinh". V́ nều quí
trọng sẽ phải tạo nghiệp bất lành để phụng sự nó, mà rốt
cuộc rồi cũng phải bỏ. Nhưng không nên khinh
nó, v́ nhờ thân mà học được đạo, cúng
dường lễ Phật, nhờ thân mà hoàn thiện
được con người làm nên việc nghĩa để
tiến lên địa vị Tiên, Phật. V́ thế không nên
nh́n thiên lệch, cho thân là bất tịnh, tai họa... rồi
xem nó như kẻ thù!
Nếu
ḿnh nh́n thân như kẻ thù, th́ người chia
xương, xẻ huyết, sinh sản nuôi nấng nó, bấy
giờ ḿnh mới xem họ ra sao đây? Vô ơn bạc nghĩa
chăng?
Ḿnh có quư
trọng thân ḿnh, mới có quư trọng công ơn sinh dưỡng
của cha mẹ.
Trở lại,
v́ có quư thân cha, nên đám con chú ba mới thấy thông cảm
t́nh cḥm xóm và chú ba mới mang ơn tới cây cỏ vậy.
(
Hồi
Pháp trở lại lần thứ hai, khoảng 1947-48 ǵ
đó, đồn bót đóng khắp nơi. Sinh mạng
người dân thời loạn rẻ rề!
Một
đêm kia, Bác nằm mộng đi ngang đồn thấy
lính dẫn năm người ra xử tử (3 đàn ông,
1 đàn bà và 1 trẻ em). Nh́n thấy Bác, tên lính đồn
trưởng kêu:
Đổi
mạng không?
Bác lắc
đầu. Nó mặc cả:
– Một
mạng đổi hai nè!
Bác cũng
lắc đầu. Nó tăng thêm:
– Thôi, một
mạng đổi năm đó!
Bác liền
gật đầu, đi vào ngồi dưới cột cờ
chờ nó bắn. Tên đồn trưởng lại chớ
trêu ra điều kiện:
– "Mỗi
người phải mắng ông này một câu mới về".
Mấy
người đàn ông lấp bấp chưởi coi bộ
gượng gạo lắm. Đến lượt người
đàn bà, bà ta xỉ xỏ chưởi mắng Bác thậm
tệ như oán hận đâu đời nào. Ơn cứu
tử c̣n ràng ràng mà ḷng người sao chóng phôi pha! Bác tức
cười cho t́nh đời sao quá ư đen bạc, tiếng
cười làm Bác thức giấc.
Ḷng hân
hoan sung sướng vô cùng, nhớ lại việc đổi
mạng cho năm người, ḿnh chỉ thấy vậy
là lời, nên xem cái chết rất nhẹ. Ngồi giữa
pháp trường mà như ngồi ngắm hoa cảnh giữa
công viên, không chút sợ sệt. Không nghĩ mạng đem
đổi là mạng ḿnh và năm mạng được cứu
sống là mạng của người khác; giữa ḿnh và
người không phân chia, cách biệt. Đặc biệt
hơn nữa là ḿnh không hy sinh làm phước, không hồi
hướng ǵ cả, mà chỉ thấy đổi như
thế là quá lời đi thôi.
Trong giây
phút mộng mị ấy ḿnh đă vượt khỏi tử
sanh; sống chết không phải vấn đề nữa,
và thấm thía được câu:
"Nhân
ngă, ngă nhân đừng cách biệt
Sắc
không, không sắc chớ ĺa xa" (SG)
Bây giờ,
ḿnh đă thức hẳn, công phu cũng khá dăi dầu,
nhưng hỡi ôi!
"Giận
bấy thân sao không bằng mộng!"
Mong các em
các cháu đừng lấy cái đầu mà suy tư chuyện
đổi mạng này, hăy nhường lại cho quả
tim. (
Có mấy
anh em đang bàn bạc về chuyện ăn chay, câu chuyện
sắp tàn, Bác nhắc:
– Hồi
tôi mới ăn chay, lâu lâu hay nằm chiêm bao thấy ăn
mặn. Khổ nỗi là lần nào cũng lỡ ăn rồi
mới sực nhớ là ḿnh ăn chay; như vậy công phu
chay lạt bấy lâu tiêu rồi! Buồn tức, sao không nhớ
sơm sớm. Khi giựt ḿnh thức giấc, biết là
chiêm bao chứ ḿnh không có ăn mặn, ḷng mừng vô cùng. Cứ
lâu lâu lại mộng thấy ăn mặn một lần.
Bẵng
đi mấy mươi năm không thấy nữa, hôm rồi
(cách đây khoảng mười năm), tôi nằm mộng
thấy ăn cơm vơi mắm chưng, dưa ghém ngon lắm.
Tưởng đồ chay, tôi ung dung ăn, gần xong mới
phát giác ra mắm mặn, nhưng ḷng không ân hận, ray rứt
như thuở trước. Bây giờ ăn mà tâm ḿnh nghĩ
là đồ chay thôi.
Có một
điều lạ là c̣n một bát cơm nữa mới no,
tôi tự nhiên bới ăn thêm mà tâm hồn vẫn an nhiên
như lúc trước, dù biết rơ là mắm mặn rồi.
Và khi thức dậy cũng không mừng v́ đó là mộng,
chứ ḿnh không có ăn mặn.
Nghe xong,
ai nấy cười rồi giải tán, có lẽ họ
không mấy thông cảm. Một người bạn nán lại
khen:
– Kể
ra về tŕnh độ chay mặn của anh tiến xa lắm
rồi đó!
Qua giấc
mộng này Bác biết thêm một tâm chay khác. Xưa nay, Bác
nghĩ "Tâm chay là tâm hiền lành, từ bi Bác ái."
"Tu
thương người mới thật chay trường"
(SG)
Nay thấy,
nếu tâm ḿnh giữ được b́nh đẳng như
trong giấc mộng trên, th́ ăn ǵ cũng là "ăn
chay" cả. Và đồng thời nhận được
việc Đức Thầy ăn chay sáu ngày, chứ thật
ra ngài trường chay đấy.
Các cháu
đừng động năo việc này, hăy chờ đến
lúc thông cảm thôi!(
Một lần
nọ Bác đi đám giỗ, có đăi một mâm chay, mà
nước mắm chay và mặn bây giờ rất khó phân biệt,
chỉ có người làm mới biết thôi. Hôm đó, họ
dọn nước mắm mặn qua mâm chay. Ăn xong, cô chủ
nhà phát hiện ra sự việc, sợ tội, ḷng ray rứt
nên đến thỏ thẻ với Bác:
– Hồi
năy lu bu, mấy chị lỡ dọn lộn nước mắm
mặn qua mâm chay, mong Bác thông cảm.
Bác điềm
nhiên cười và trấn an:
– Lộn
th́ lộn chứ, ở đây người ta ăn nước
mắm chay, đâu có ăn nước mắm mặn mà con
lo! (
Dạo
đó, Bác Hai và mấy người bạn làm rẫy ở
kinh Cụ Hội. Trời mùa đông năm ấy rất lạnh.
Sáng sớm, mấy Bác nấu cơm ăn dưới ghe.
Có ông lăo trên 50 tuổi, đang dậm dấu ṃ cá dưới
kinh. Thấy có lửa ông lội lại, ngồi nép sau lái
ghe trángh gió và lấy thuốc ra hút. Vấn thuốc xong, ông
với tay lấy que củi đang cháy dở trong ḷ và nói:
– Cho mồi
nhờ điếu thuốc nha!
V́ lạnh
quá, tay ông run run, khó khăn lắm ông mới châm được
điếu thuốc. Liếc nh́n thấy mấy Bác ăn
cơm với dưa leo chấm tương hột, ông nói:
– Ăn cực
quá vậy?
Bác
đáp:
– Ăn vậy
chớ sướng hơn ông đó à!
Lời
nói đúng ngay vào cảnh sống, ông ta thấm thía than:
"Vợ con đùm đeo phải rángg chớ biết
sao!"(
Có lần,
Bác Hai bế một em bé độ hai tuổi, nựng nịu,
hôn hít giây lát rồi đưa trả cho ba nó và nói:
– Nuôi con cực
nhọc, vậy chớ nó đă có đáp bù rồi đó!
Ba em bé nói
nựng con:
– Lớn
lên làm nuôi ba nghe con!
Bác Hai
đính chính:
– Chẳng
phải đợi sau này lớn lên nó báo hiếu đâu, mà
ngay bây giờ nó đă bù đáp rồi.
Ba em bé vừa
hôn con vừa cưới nói:
– Bác Hai
khác hơn các vị cư sĩ ở chỗ đó.
Có ông cựu
bí thư xă, hiền lành và có hiếu lắm. Nhưng ông không
chịu thờ cúng, lễ lạy ông bà, cha mẹ v́ nghĩ làm vậy là vô ích và mê tín.
Một
hôm, ông đến thăm chơi, sẵn dịp Bác Hai mời
ông ở lại dự lễ cúng cơm cho bà má Bác. Đến
giờ dọn cúng, ông ra ngoài mái hiên ngồi chờ. Đám
giỗ đơn sơ, độ hơn mươi người
khác.
Cúng xong,
Bác nói một câu chuyện mà mục đích là muốn nói cho ông bí thư đó
nghe:
– Hồi
năy, tôi đứng hầu nhang cho anh em cúng, tôi sực nhớ
một câu chuyện ngồ ngộ: Tôi có đứa em gái một
cha khác mẹ, hiện ở Mỹ; nó có cô bạn gái người
Mỹ. Năm rồi nó về Việt nam thăm quê, cô bạn
mỹ đó gởi nó 20 đô la và bảo:
"Về
Việt
Cô Mỹ
này thật ra chưa biết bà má của em tôi ra sao cả;
tuy nhiên việc làm đó là thể hiện tấm ḷng tốt
của người "ăn trái nhớ kẻ trồng
cây" vậy.
Hôm nay, anh
em tới đây dự lễ giỗ má tôi. Thật ra không
ai biết bà ra sao cả, v́ bà mất hơn năm
mươi năm rồi. Anh em đến đây cúng bà, chẳng
qua v́ t́nh thương với
nhau thôi. Cúng xong ḿnh hưởng, chứ người quá cố
có ăn uống ǵ!
Sáng hôm
sau, anh em ngồi lại ăn bánh, uống trà, ông Bí thư ấy
nói:
– Hôm qua,
anh Hai nói vắn tắt, vậy chớ sâu lắm à! Nói chút
vậy chớ thấm đó.
Nay th́ ông ấy
chịu dâng hương cúng ông bà rồi. (
Đó là
câu trong chuyện Kiều mà Bác Hai thắc mắc! Sao lạ,
"Hoa tàn mà lại thêm tưoi"?
Một hôm, thím Sáu (sáu Thuần LX), người đă kể lại
chuyện mua hoa tết cho Bác nghe:
– Hôm 30 tết,
con đi honda chạy ngang nhà thờ, thấy có bà già đứng
ôm một mớ bông. Thấy lạ, con ghé lại hỏi:
“Bà bán hay
mua mà đứng đây?”
“Bán, mà
không ai mua cả!” Bà nói.
“Sao bà
không đem lại chợ hoa bán, để đây ai biết
mà mua?”
“Lại
đẳng bán ǵ được! Hoa người ta
tươi tốt như rồng, c̣n của ḿnh th́ xấu
hơn! Ở đây bán cầu may. Nhà có chồng ít bông để
cúng nhưng tết túng tiền nhổ một mớ bán, mua
đồ về cúng ông bà. Cô làm ơn mua giùm tôi đi!”
Thấy
hoa kém tươi, không muốn mua nhưng muốn giúp bả
nên con nói:
“Bà cần
bao nhiêu tiền? Tôi giúp cho bà mua đồ về cúng.”
“Không, tôi
không dám nhận tiền cô đâu. Cô mua giúp giùm tôi cám ơn lắm!”
“Thôi
được, bà bó hoa lại đi. Bà định bao nhiêu
tiền con trả đủ cho.”
V́ con muốn
giúp cho bả, nên không trả giá ǵ cả. Thím Sáu nói thế
với Bác.
Đem hoa
về nhà con bảo mấy đứa nhỏ thay hoa cũ,
chưng hoa mới mua.
Mấy
đứa cười ngất: "Hoa cũ c̣n tươi
hơn hoa của bà nữa!"
“Kệ
thay đi, hoa này kém tươi nhưng mới mua.”
Bác chỉ
nghe kể lại chuyện mua hoa thôi, nhưng Bác cảm thấy
b́nh hoa đó vô cùng rạng rỡ. Chắc Phật trời
cũng hài ḷng đẹp dạ biết bao! V́ trời Phật
chỉ trọng của cải mà người ta đem giúp
đỡ nhau, hơn là lễ vật đem dâng cúng cho các
Ngài.
Rồi bỗng
nhiên Bác cảm thông được câu: "Hoa tàn mà lại
thêm tươi".(
Có người
bạn cùng tuổi với Bác, nay ông đă chết rồi!
Lần đó, ông bị vỡ bao tử, đưa vào bệnh
viện cấp cứu kịp.
Bác hay tin đến thăm.
Ông nói:
– Hồi
đó giờ tu, mà tôi chưa phát đại nguyện. Bây giờ
tôi phát đại nguyện rồi anh.
Bác không hỏi
xem ông phát đại nguyện ǵ, ra sao? Mà lại nói:
– Tôi
như anh, tôi khỏi phát đại nguyện, kể
như hôm đó bao tử khâu không kịp, ḿnh đă chết
rồi là yên.
– Ừa!
Tôi cũng tính như anh vậy, miễn vợ con nó xuôi một bề th́ thôi.
– Vậy
là anh chưa chịu chết, đă chết lại c̣n miễn
cái nỗi ǵ nữa! (
HẾT
PHẦN MỘT