Tài Liệu
Sưu khảo của NGUYỄN ĐỨC MAI
SUNNYVALE,
CALIFÕRNIA 1999
Đàn Nguyệt
(Toan Ánh- Cầm Ca Việt
nam)
Đàn nguyệt hình
mặt trăng, còn được gọi là Nguyệt
Cầm.
Ông Thạc Nhân đã
nhầm đàn này với đàn Cầm. Đàn này thùng
rộng tám tấc rưỡi, dàymột tấc
rưỡi, cần dài một thước bảy tấc,
8 phím, 4 dây, hai dây chập một như đàn Nhật..(
Đàn này ngoài Bắc Việt còn gọi là đàn tứ vì
có 4 dây. Thùng đàn hình tròn như mặt tri, cần dài 7
tấc, mặt thùng rộng tám tấc. Đàn có 10 phím, 4
dây, 2 dây chập một). Ngưi xử dụng đàn có tài
chỉ cần 2 dây. Mỗi phím có th có 4 âm thanh tùy theo tay rung
mạnh hay yếu trên dây, nh đó đàn có những
biến âm rất êm tai và quyến rũ.
Long Thành Cầm Giả Ca
của Nguyễn Du -
Hạnh Cơ dịch (đăng trong Thế
Kỷ 21 - Số
105&106 - Tháng Giêng & Hai 1998).
Long Thành Cầm Giả Ca.
Tần sứ thi tác.
Tiu dẫn
Long thành cầm giả
bất tri tánh thị. Văn kỳ ấu niên tòng học
bát Nguyn cầm ư Lê trung hoa tấn bộ trung. Tây sơn
binh khởI, cựu nhạc tử tán; kỳ nhân lưu
lạc thị tri"n, hiệp kỹ dĩ ngao, chúc
tản bộ. Sở đàn giai ngự ti"n cung phụng
khúc, phi ngoại nhânsở văn, toại xưng nhất
thI tuyệt kỹ.
Dư thiếu thi, thám
huynh đế kinh, lữ túc Giám hồ điếm. Kỳ
bàng Tây sơn chư thần đại tập nữ
nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Kỳ nhân
độc dĩ Nguyn, cầm thanh thiên trưng, phả
năng ca, tác bài hài ngữ, nhất tọa tận điên
đảo, sác thưởng dĩ đại bạch,
triếp tận, tri"n đầu vô toán, kim bạch ủy
tích mãn địa. Dư thI nặc nhân ám trung, bất
thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ,
đoản thân,, khoát kim, ngạch đột,diện ao,
bất thậm lệ, cơ bạch nhi th phong, thiện tu
sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thúy tiêu
thưn, xước xươc nhiên hữu dư vận.
Tính thiện ẩm, hí lãng hước, nhãn hoắc hoắc,
khuyông trung vô nhất nhân. Tại huynh gia, mỗI ẩm
triếp tận túy, ấu thổ lang tạ, ngọa địa
thượng, đồng bốI phi chi, bất tuất dã.
Hậu sổ tải,
dư tỉ gia Nam qui, bất đáo Long Thanh nhược
can niên hĩ. Kim xuân, tương phụng mệnh Bắc
sứ, đạo kinh Long Thành, chư công nhục tin vu Tuyên
Phủ nha, tất triệu tại thành nữ nhạc,
thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh
điện,điệt khởI ca vũm kế văn
cầm thanh thanh việt, quýnh dị thI khúc, tâm dị chi.
Thị kỳ nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc
như quỉ, y phụctịnh thô bố, bại khôi
sắc, đa bạch bổ chi, mặc tọa tích mạt,
bất ngôn diệc bất tiếu, kì trạch đãi bất
kham giả. Bất phục tri vi thùy hà, duy ư cầm thanh
trung tợtằng tương thức, trắc nhiên vu tâm.
Tịch tán, chất chi nhạc nhân, tứckì nhân dã. Ta
hồ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng
bồI hốI, bất thăng kim tích chi cảm. Nhân sinh
bách niên, vinh nhục ai lạc, kì khả lượng da!
Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu
cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng.
Long Thành giai nhân
Tính thị bất kí thanh
Độc thiện Nguyn cầm
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
Học đắc tiên tri"u cung trung cung phụng phúc
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh
Dư ức thiếu thI tằng nhất kiến
Giám hồ hồ biên dạ khai yến
Kì thI tam thập chánh phương niên
Hồng trang ym ái đào hoa diện
Đà nhan hám thái tốI nghi nhân
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
Hoãn như sơ phong độ tùng lâm
Thanh như song hạc minh tại âm
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái lịch lịch
Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm
Thính giả mị mị bất tri quyện
Tiện thị Trung Hòa đại nộI âm
Tây sơn chư thần mãn tòa tận điên đảo
Triệt dạ truy hoan bất tri bão
Tả phao hữu trịch tranh tri"n đầu
Nê thổ kim ti"n thù thảo thảo
Hào hoa ý khí lăng vương hầu
Ngũ Lăng thiếu niên bất túc đạo
Tịnh tương tam thập lục cung xuân
Hoạt tố Trưng An vô giá bảo
Thử tịch hồI đầu nhị thập niên
Tây sơn bại hậu dư Nam thiên
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến
Hà huống thành trung ca vũ diên
Tuyên phủ sứ quân dư trọng mãi tiếu
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
Nhan sấu thần khô hình lược tiu
Lang tạ tàn mi bất sức trang
Thùy tri tựu thị đương thI thànhtrung đệ nhất diệu
Cựu khúc tân thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
Mãnh nhiên ức khởI nhị thập niên ti"n sự
Giám hồ tịch trung tằng kiến chi
Thành qúach suy di nhân sự cải
Kì xứ tang đi"n biến thương hải
Tây sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không di nhất nhân tại
Thuấn tức bách niên năng kỉ thì
Thương tâm vãng sự lệ triêm y
Nam hà qui lai đầu tận bạch
Quái đ giai nhân nhan sắc suy
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng
Khả liên đốI diện bất tương tri.
Dịch: BÀI CA NGƯỜI
GẢY ĐÀN ÀNH THĂNG LÕNG
(Làm trong lúc đi sứ
Trung quốc)
Li dẫn
Không ai biết người
gảy đàn ở thành ThăngLong tên họ là gì. Nghe nói,
thuở nhỏ nàng từng học chơi đàn nguyệt
ở độI nữ nhạc trong cung vua Lê. Khi quân Tây
sơn kéo vào Thăng Long, những ngưI trong độI
nữ nhạc cũ kẻ thì chết, kẻ chạy
tản mác. Riêng nàngthì lưu lạc ở các chợ, ôm
đàn hát dạo khắp nơi. Nàng chơI toàn những
khúc nhạc chỉ được din tấu trong cung vua,
ngoài dân giã chưa từng ai được nghe.
BởIvậy ngón đàn của nàng đã nghim nhiên trở
thành tuyệt kỹ một thi.
HồI còn trẻ, có
lấn tôi v" kinh đo thăm anh tôi , ở trọ
gần bên hồ Giám . Cạnhđó các quan binh Tây sơn
mở hộI hát lớn, đào hát nổI tiếng không dướI
vài chục cô. Riêng nàng độc đáo vớI cây đàn
nguyệt, lại hát hay và khôi hài duyên dáng, khiến mọi
người đều mê mệt. Họ đua nhau ban
thưởng từng chén rượu lớn, và nàng
đ"u uống cạn. Ti"n và gấm vóc
thưởng cho nàng nhi"u vô k, chất đầy ra đất.
Lúc đó tôi núp trong bóng tốI, nên đã khpông thấy nàng rõ
lắm. Sau lại đưọc gặp lại nàng
tại nhà anh tôi. Nàng ngưI thấp, đôi má đấy
đặn, trán vồ, mặt hơI gẫy. Nàng không
đẹp lắm nhưng có nước da trắng
trẻo, thân hình tròn trịa, trang đim d coi, lông mày thanh tú,
má đánhphấn đậm, mặc áo màu hồng, quần
lụa xanh cánh trả, dáng ẻo lả của ngưI thanh
thản. Nànguống rượu cũng khá, hay khôi hài
bỡn cợt, đôi mắt long lanh, chưa chịu đ
ai lọt vào mắt xanh. Hôm đó tại nhà anh tôi, nàng
đã uống say vùi, đến nỗI nôn mửa bừa
bãi, rồI nằm lăn ra đất, chúng bạn chê trách
cũng không đ tâm.
Sau đó vài năm tôi dI
nhà vào Nam, suốt bao năm li"n không trở lại
Thăng Long. Mùa xuân năm nay tôi vâng mệnh vua đi sứ
Trung quốc. Đưng đi ghé qua Long Thành, các bạn
mở tiệc hậuđ tin sứ đoàn chúng tôi tại
dinh quan Tuyên phủ , có mI vài chục nữ nhạc trẻ
đẹp đến giúp vui. Các cô thay nhau múa hát, tôi hoàn toàn
không biết mặt biết tên cô nào cả. Bỗng tôi nghe
tiếng đàn trong trẻo khác lạ nổI lên,
vượt hẵn những khúc nhạc thưng nghe khác. Tôi
rất lấy làm lạ. Nhìn ngưI gảy đàn thì đó
la một ả gấy ốm, thần sắc héo khô,
mặt sạm đen xấu như quỷ, áo quần toàn vải
thô bạc thếch, lại chằm vá nhi"u mảnh
trắng. Ả ngồI lầm lì ở cuốI phòng ,không
nói không cưi. Hình trạng thật khó coi.Tôi không biết
nàng là ai, nhưng nghe kỹ tiếng đàn thì dưng
như đã từng quen biết, nên lòng thấy cảm xúc.
Tiệc tan, hỏi thăm thì nàng chính là ngưI tôi đã
gặp ở nhà anh tôi ngày xưa. Than ôi! Nàng sao đến
nông nỗI này! Lòng dạ bồI hồI, hết cúi
xuống rồI lại ngẩng lên, tôi nghĩ đến
hoàn cảnh xưa kia và bây gi mà xót xa vô hạn. Trong cuộc
sống trăm năm, những cảnh vinh nhục vui
buồn của con ngưI thật khó mà lưng
được! Sau khitừ biệt, suốt dọc
đưng cứ nghĩ đến nàng mà xót thương
vô cùng, cho nên làm bài ca sau đây đ ghi lại cảm xúc
của mình.
Người đẹp thành Thăng Long
Họ tên không rõ
Riêng giỏi đàn Nguyệt
Người trong thành đ"u gọI tên nàng là Cầm
Nàng học được những khúc nhạc cung đình ở triều vua trước
Từ đó nàng có ngón đàn tuyệt diệu nhất trên đI
Tôi nhớ đã gặp nàng một lần thIcòn trẻ
Trong một buổI dạ tiệc gần bên hồ Giám
Lúc đó nàng đã băm mốt tuổI
Áo đỏ ánh lên khuôn mặt hoa đào
Má đỏ hây vì rượu, dáng vẻ ngây thơ, trông d thương
Năm cung réo rắt thay đổi theo ngón tay nàng
Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông
Tiếng trong như đôi chim hạc kêu nơI bóng râm
Tiếng mạnh như sét đánh b tan bia Tiến Phúc
Tiếng buồn như ông Trang Tích lúc ốm đau ngâm câu tiếng Việt
NgưI nghe mê say không biết mỏi
Đó la những khúc nhạc trong điện TrungHòa
Cá c quan binh Tây Sơn trong tiệc đều nghiêng ngã
Vui chơI thâu đêm không biết chán
Bên trái bên phải tranh nhau tặng thưởng
Tiền bạc coi rẽ như đất bùn
SÁCH
DẠY HÁT TIẾNG NAM
Nam Âm Ca Xướng Giáo
Khoa Thư
Chants d`écoliers en annamite
Tác giả : NGUYỄN TRUNG
PHÁN
Thượng Hạng Tú
Tài - Thấy Giáo Trưng Đông Ba
NGUYỄN TRUNG NGHĨA
Thị Giảng Học
Sĩ - Thầy Giáo Trưng Quốc học
In lần thứ hai - 1929
- Imprimerie Tieng Dan Rue Dong Ba HUE
Lưu giữ tại :
Tủ Sách Tiếng Sông Hương Dallas.
Cung gồm có tiếng
chính, tiếng phiên.
Chính có 5 tiếng : Họ,
Xự, Xàng, Xẻ, Cống : C, D, F, G, A.
Phiên gồm có các
tiếng: Tồn, Tang, Lìu, Xệ, Phạng, Cộng, Liu, U,
Xang, Y, Ý.
Bậc có hai:
Bậc thấp : Họ,
Xự, Xàng, Xê, Cống
Bậc cao : Liu , U , Xang, Y,
Ý
Phách : Khổ phách chia làm
bốn độ: 1 - 2- 3 - 4 . Độ 4 là phách cái
Khổ phách một :
Rơi vào độ 4
Khổ phách đôi :
RơI vào các độ 2 và 4
Khổ phách 3 : RơI vào
các độ 2, 3, và 4.
Khổ phách tưhay phách
mau: Rơi vào tất cả 4 độ 1, 2, 3 và 4.
Phách có 3 thứ :
Phách chính
Phách nội
Phách ngoại
Điệu có hai : Nam -
Chậm ; Khách - Mau
1. Điệu hát
hồ-quảng
(Hát trung bình - Phách một)
BÀI HÁT :Cảnh Tri Gần
Sáng (Điệu Hồ Quảng) I Đêm đã sáng têt"
Gà sẹ sè phất
cạnh
Sác sạc sạc tè té tè
te
Kia sao mai đã mọc
Vựng hồng
đỏ giọi chơn tri rợn đông
Nghe trên núi khướu
giồng chào bạn:
Kẹo kẹt kẹo
kẹt
II
Chuông giục lúc canh tàn
Cụ già dở mình
thức dậy
Hẽ hẹ hẽ ho vài
ba giây
Ù-hoa, con thơ đòi
mẹ
Mẹ ngồI dậy
ẵm, ru hI ru hơI
Lũ con trẻ trong phòng
dậy học
Xị xộ xị
xộ
III
Vú lại bếp đun
chè
Mục đồng
lại hò trâu cỡi
Rị hò rị , ra
đồng cày trưa
Nghe bên kia thổI bệ,
Thợ rèn lục cục
, đập búa đập đe
Trống chiêu xổ trên
thành súng nổ
Đụng đùng
đụng đùng
IV
Phố tiệm khách buôn
hàng
Rần rầm rấm xán
cửa
Rặc rặc rặc nghe
bàn toán rung
Ta thức nhau vùng dậy
Sửa buồm sửa
lạc anh chéo em bơI
Bin năm châu đua nhau
tới bợt
Giạ hè giạ hè
2. Điệu lý Nam Xang
(Hát trung bình - Phách một)
NGŨ LUÂN
(Lý Nam Xang)
Tác giả : NGUYỄN TRUNG
PHÁN
Thượng Hạng Tú
Tài - Thấy Giáo Trưng Đông Ba
NGUYỄN TRUNG NGHŽ
Thị Giảng Học
Sĩ - Thầy Giáo Trưng Quốc học
I
Làm ngưi phải có
(ư luân ngũ luân ư luân) ngũ luân
Nếu mà (tình như)
thiếu một
(À ư a mưi phân mưi
phân thẹn thuồng
U xang u xang u liu cống,
mưi phân)
Mưi phân thẹn
thuồng.
II
Thử xem các giống chim
muông
Hổ lang còn có cha con thân
tình
III
Kiến ong có dạ trung
trinh
Cái n"n quân chủ
đinh ninh giữ b"n
IV
Nhạn hồng thứ
tự anh em
Khi bay khi đậu
dưới trên có hàng
V
Thứ cưu chồng
vợ hiệp hoan
Song song hai tiếng `quan
quan` xướng hòa.
VI
Nai hưu bầu bạn
thiết tha
Cùng nhau lũ bảy
đoàn ba hiệp quần
VII
Vật mà còn chút di luân
Huống là nhân loại
bỏ văng sao đành.
3. Điệu hát
Đăng Đàn Cung
(Hát chậm - Phách đôi)
Có học mới hay
(Điệu Đăng Đàn Cung)
Tác giả : NGUYỄN TRUNG
PHÁN
Thượng Hạng Tú
Tài - Thấy Giáo Trưng Đông Ba
NGUYỄN TRUNG NGHŽ
Thị Giảng Học
Sĩ - Thầy Giáo Trưng Quốc học
I
Dậy dậy dậy
mở mắt xem toàn châu
Đèn khai hóa rạng
khắp hoàn cầu
Ngọn đưng thông
thương ngàn dặm
Xe tàu điện, tàu
nước,tàu bay
Ngh" khôn khéo chạy
khắp phương trI
Càng ngày văn minh càng
rộngm tranh cạnh lợi quy"n
Đất càng ngày càng
rộng, dân giàu nướcmạnh
Nước càng ngày càng
thịnh, của có thêm ngưI khôn.
II
NgưI Nam Quốc một
giống Tiên Rồng
Thiệt giòng giai nhân tái
tử, xưa rày gọI là nước tài ba
N"n văn hiến,
nặn đúc anh hùng
Sẵn tài thông minh trI
dựng, thêm ngh" học hành
Học càng ngày càng
tiến, ngh" nghiệp mở rộng
Nước càng giàu càng
mạnh, nòi giống thêm vẻ vang
III
Này Âu Á, gặp lúc phong
trào,
Sẵn thấy gia công rèn
tập, trăm ngh" nghiệp đ"u biết
đ"u hay
Đưng tiến hóa
chạt suốt Tam Kỳ
Càng ngày non sông càng
đẹp, cám ơn b tri.
Chúc Đại Pháp bình an,
nước nhà thịnh trị
Chúc Nam Việt vạn
tuế, trưng thọ vô cương.
--------------------------------------------------------------------------------
Nguyên tác viết là `Nguyn
cầm` (đàn Nguyn). Đàn nguyệt mà gọI là đàn
Nguyn, vì theo tương truy"n, ngưI chế ra nó tên là
Nguyn Hàm, ngưI đI Tấn (265-420), Trung Quốc. Nguyn Hàm
là cháu, gọI Nguyn Tịch là chú. Cả hai chú cháu đ"u
giỏi âm nhạc, và đ"u thuộc trong nhám `Trúclâm
Thất Hi"n`.
Đây có th là thI vua Lê Hin
Tông(1740-1786). Theo bài thơ này, Nguyn Du đi sứ Trung
Quốc vào năm 1813. Cụ đã từng gặp nàng hai
mươI năm trước, tức vào năm 1793. Năm
đó nàng được 21 tuổI, cónghĩa là, khi nhà Lê
sụp đổ(1789) thì nàng đã 17 tuởi. Lúc này tài
nghệ nàng đã cao, chúng ta có th nghĩ là nàng đã học
đàn trong cung vua Lê (Hin Tông) trong khoảng từ 10
đến 14 tuổi.
NgưI anh mà cũ Nguyn Du nói ở đây là Nguyn N, anh kế của cụ và cùng do bà Trần Thị Tần sinh ra. Cũ Nguyn N trước làm quan vớI nhà Lê. Sau khi nhà Lê mất, từ năm 1790 đến năm 1794, cụ ra làm quan vớI nhà Tây Sơn, ở Bắc thành (tức thành Thăng Long). Cụ Nguyn Du - lúc ấy đang ẩn náu tại quê vợ ở Thái Bình- v" Thăng Long thăm cụ Nguyn N làlúc này (khoảng năm 1793). Tuy kinh đô lúc bấy gi là Phú Xuân, nhưng trong tâm khảm, cụ vẫn coi Thăng Long là kinh đô.
Hồ Giám : tức hồ
Hoàn Kiếm
Sau khi ẩn náu ở Thái
Bình mưI năm (từ 1786), năm 1796 Nguyn Du trở
vế lại quê nhà ở Hà Tĩnh. Chữ `vào Nam` ở
đây có nghĩa là từ Thái Bình (Bắc) dI vế Hà
Tĩnh (Nam)
Tức là năm 1813.
Năm đó cụ được thăng làm Cần chánh
điện học sĩvà đươ85c sung chức chánh
sứ đ cầm đầu sứ bộ sang Trung
Quốc.
Tuyên Phủ Sứ:
tức quan Trấn Thủ Bắc thành (Thăng Long)
dướI tri"u vua Gia Long.
Chùa Tiến Phúc (xây năm
684, đI vua Duệ Tông nhà Đưng) ở tỉnh Giang
Tây, có tấm bia mộ nổI tiếng vì chữ viết
(của Âu Dươg Tuân) rất đẹp. Bản
rập chữ của văn bia này cũng đã đáng giá
ngàn vàng. ĐI Tống có ông Phạm Trọng Yêm làm quan
ở Bá Dương, có ngưI học trò nghèo trình lên bài
thơ hay, nên đã cho phép ngưI học trò này rập bào
mộ ngàn bản chữ của văn bia kia đem lên kinh
đô bán lấy ti"n sinh sống. NgưI học trò
li"n chuẩn bị giấy mực sẵn sàng
định sáng ngàyra đi, nhưng trong đêm đó,
tấm bia bỗng bị sét b tan tành. Cho nên ngưI học
trò nghèo vẫn hoàn nghèo.(ThI lai phong tống Đằng
Vương các- Vận khứ lôi phong Tiến Phúc bi.NĐM
thêm)
Ông Trang Tích là ngưI
nước Việt, nay làm quan ở nước Sở.
Một hôm ông bị bệnh, vua nước Sở hỏi
mọI ngưI:`Tích là kẻ tấm thưng ở
nước Việt, nay làm quan ở Sở, được
qúi hin rồI thì còn nhớ nước Việt nữa
chăng? NgưI hầu cận đáp:`Phàm ngưI ta có
nhớ nước cũ hay không thưng tỏ lộ trong
lúc ốm đau. Lúc này ông ta đang bệnh, nếu ông ta
nói tiếng Việt tức là còn nhớ nước
Việt. nếu ông ta nói tiếng nước Sở,
tức là đã quên nước Việt`. Vua Sở li"n
cho ngưI rình nghe thì thấy Trang Tích đang nói tiếng
Việt.