Site hosted by Angelfire.com: Build your free website today!

Về thăm Ngăm Gíao

(t́nh yêu và đức tin không thể chết)

 

Nghe bà chủ hotel kể rằng ở Lim, bọn đàn anh đàn chị, đang chuẩn bị tập dượt cho ngày hội quan họ. Thấy rằng đây là một cơ hội không thể thiếu nên từ Hà Nội, chúng tôi lên đường đi thăm làng Ngăm sớm hơn dự định. Để có thể thưởng thức một bát phở gia truyền Bát Đạt, chúng tôi đă phải đi thật sớm, khi trời Hà Nội c̣n phủ kín sương mù và dưới cơn mưa phùn, gió bấc. Chúng tôi đây là tôi và bác tài của công ty Hương Giang, mà chúng tôi đặt thuê từ Thụy Sĩ.

6 giờ sáng, trời Hà Nội c̣n tối và đèn đường chỉ đủ sức tỏa ra những tia sáng vàng vọt, dưới những lớp sương mù dày đặc. Những bác tài xế xích lô vẫn c̣n quấn ḿnh trên những ghế đá công viên, dưới những hàng xấu ǵa. Những hàng qùa rong, cất tiếng rao lanh lảnh, nghe rất lạ tai. Những người phu quét đường, mang áo tơi, quơ những đường chổi mệt mỏi. Những con chó được các nhà chủ cho chạy rong ra đường, t́m những chỗ tiểu tiện buổi sáng. Đường phố Hà Nội ngập mùi cống rănh. Hiệu phở Bát Đàn c̣n trống vắng, chúng tôi kiếm một cái bàn gần với nhà bếp nhất để từ đây có thể quan sát mọi diễn biến trong tiệm phở này. Nhà phố Hà Nội chật hẹp, những anh nhân công ngổi phải xổm dưới đất để có thể cắt lọc thịt. Những tảng thịt khổng lồ, được đặt trên những lớp giấy báo, coi vẻ không mấy vệ sinh. Những thúng hành, ng̣ được cắt sẵn từ đâu đem tới, ḥa lẫn với mùi thơm nước lèo, bay mùi thơm ngát. Những chồng bát được chất cao vút. Cứ mải mê quan sát những người nhân công cắt, lẻo thịt mà chúng tôi không để ư một điều là muốn có được một tô phở th́ phải ra ngoài đường xếp hàng và tự bưng vào bàn. Nh́n ra đường, chúng tôi đă thấy một hàng dài người xếp hàng dưới cơn mưa xuân lún phún. Chúng tôi nối đuôi sau đoàn người chờ đợi và phải mất nửa tiếng đồng hồ mới tới phiên. Cách phục vụ phở ở đây thật là ngộ nghĩnh. Những người múc phở cũng là kẻ thu ngân. Tay vừa cầm thu những đầu tiền bụi bậm, dơ bẩn, vừa cầm những miếng thịt nạm gầu thoăn thoắt bỏ vào bát. Họ làm việc, im lặng như kẻ câm. Phở ở đây chỉ có 3 loại, đưa tiền loại nào th́ nhà hàng bán cho loại ấy. Tái hoặc tái nạm gầu 6.000, nạm 5.000 và gầu 4.000. Cứ như thế mà trao đổi, nhà hàng bù đầu với công việc, không hơi đâu mà tṛ chuyện.

Pḥng ăn, bàn ghế không mấy sạch sẽ, khách cứ việc vứt bỏ những cuống rau thơm, vỏ chanh xuống ngay nền đất dưới gậm bàn một cách vô tội. Khách hàng cứ lầm ĺ mà thửơng thức món ăn, ít ai tṛ chuyện với ai, kể cả những cặp nhân t́nh coi vẻ đang c̣n rất mặn ṃi, âu yếm. Người ta ăn nhanh như vẻ sợ nguội, sợ những hương vị thơm ngon, để lâu sẽ bay mất? Chúng tôi thấy có một vợ chồng trẻ ngồi bên cạnh, tính bắt chuyện làm quen nhưng thấy không khí nặng nề trang nghiêm qúa nên không dám. Tuy dù vẻ bề ngoài cũ kỹ, trông có vẻ mất vệ sinh nhưng hương vị phở ở đây thơm ngon đặc biệt. Những miếng nạm, miếng gầu được cắt bạt một cách tài tỉnh, ẩn lộ một lớp gân trong suốt và cho một hương vị phở thật ngạt ngào. Thấy nhiều người đă có tô phở trong tay nhưng chưa có chỗ ngồi, chúng tôi húp vội những ngụm nước lèo sau cùng, đứng lên nhường chỗ. Phở ở đây chỉ bán từ 6g30 tới 9g sáng và chậm chân là hết  nên khách hàng quen thuộc cũng như  những người hiếu kỳ như chúng tôi qua lời giới thiệu muốn ṭ ṃ tới ăn một tô cho biết nên đa số đă đến đây từ rất sớm. Aên một cách qúa ư là vội vàng nên rời tiệm phở, thấy c̣n sớm lắm, chúng tôi rủ nhau qua cà phê Giảng. Tiệm cà phê này có cả một lịch sử huyền thoại của nó. Tọa lạc ngay phố Hàng Ngang, đối diện với phố Hàng Đào, nằm trong một địa thế kinh tế và du lịch lư tưởng nhất Hà Nội, gía tiền đất nhà lên đến 48 lượng vàng một mét vuông và nếu bán đi hoặc kinh doanh một thứ hàng khác, hoặc dù cho thuê th́ lợi tức hàng tháng cũng cao gấp rất nhiều lần kinh doanh quán cà phê nhỏ bé này. Vậy mà cà phê Giảng vẫn cứ trễm trệ ngay giữa khu trung tâm thương mại sầm uất nhất của thủ đô.

Đối diện với bàn của chúng tôi là một ông cụ ǵa râu tóc bạc phơ, ông cụ vừa nhấp nhi ly cà phê lọc, vừa quay vào phía trong tṛ chuyện. Giọng nói của ông cụ oang oang, chứng tỏ sức mạnh của ông cụ c̣n cường tráng lắm. Thấy ông cụ vui tính, tôi ngỏ lời chào ông cụ làm quen. Cụ mời chúng tôi sang ngồi cùng bàn và tôi đă lên tiếng hỏi cụ:

- Dạ thưa! Cụ đă uống cà phê ở đây lâu chưa ạ!

- Thưa ông, chẳng nói dấu ǵ, tôi đă uống cà phê ở đây từ đời ông Giảng bố, tới đời ông Giảng con, cho tới nay, đời Giảng cháu. Trải dài từ thời Pháp thuộc, tới thời bao cấp và cho tới tận ngày nay.

Cụ vừa nói, vừa ngụm một hớp cà phê, coi vẻ thích thú và tận hưởng. Đợi cho ông cụ nhả một làn khói được hít sâu trong tận cùng của buồng phổi. Tôi hỏi cụ.

- Thưa cụ bao cấp có nghĩa là sao ạ!

- Ối giời ơi! Thưa ông! Nói tới cái thời này th́ nó rắc rối và khốn nạn lắm! Ai đời một hột muối, hột đường cũng phải tem, phiếu, sổ sách, hộ khẩu. Ngay như lăo đây đă bị mấy lần phê b́nh kiểm thảo trước dân phố chỉ v́ la cà lâu giờ ở tiệm cà phê. Đến như ông Văn Cao, một ông cụ ǵa hết sức lao động và là tác gỉa của bài quốc ca, c̣n không được ngồi yên để nhấp nháp vài giọt cà phê nữa là…

- Thưa cụ, thế nhạc sĩ Văn Cao có thường uống cà phê ở quán này không ạ!

- Ông Văn Cao th́ lại thường đóng đô ở cà phê Lâm. Trời cho mỗi người một ư thích, một con mắt, một khẩu vị. Lăo th́ chỉ ở đây thôi. Không phải cà phê ở đây ngon hơn ở chổ khác nhưng v́ cái chỗ ngồi, cảnh trí và con người ở đây đă quen lâu rồi, đă lọt vào tận trong cùng của tâm tưởng rồi. Khó thay đổi lắm! Chẳng những lăo chỉ ngồi thưởng thức cà phê ở  quán này mà ngay cả cái chỗ xó này nữa. Chẳng vậy mà mỗi khi lăo có chuyện tới trể, những kháng hàng khác cũng không đếm xỉa đến và cứ để trống cái chỗ, đợi lăo đến. Những khách hàng uống cà phê ở đây đều là những khách hàng trung thành lâu ngày, hễ cứ thấy thiếu một người là thấy thiếu vắng nhiều lắm! Họ đến đây đều theo thời khắc quen thuộc cả. Đấy hôm nay những khuôn mặt này, sáng mai ông đến cũng thế mà thôi. Lâu lâu, có khách văng lai, nhàn tản dạo cảnh bờ hồ ghé vào như ông đây nhưng không nhiều lắm.

Ông cụ vừa nói, vừa chỉ vào những bàn bên trong, họ chia ra từng toán một, chụm đầu vào nhau vừa nhấp nhi cà phê, vừa thả khói thuốc nói chuyện. Trông họ có vẻ tâm đắc, tâm t́nh và quen biết lâu ngày.

Quán cà phê này thật chật hẹp nhỏ bẻ, khiến nhà chủ chỉ dùng những chiếc ghế độc nhỏ bé, giống như tại cách quán cà phê chồm hổm ở vỉa hè Sài G̣n. Bề ngang căn nhà chỉ chừng chưa đầy 4m, vậy mà lại phải chia ra làm hai gian, ngăn cách nhau bởi một cầu thang cho người ngụ trên gác lên xuống. Khách ngồi ngăn cách trong cả hai gian, phía sau cầu thang để trống, làm đường thông giữa hai bên, nhà chủ làm việc và pha chế cà phê ở phía gian sau, nhỏ chừng vài mét vuông.

Ông cụ nhấp nhi một ngụm cà phê rồi gật gù kể tiếp:

- Quán cà phê này nhỏ bé là thế nhưng nó có cả một lịch sử và đặc thù văn hóa của nó đấy, ông ạ! Tôi là khách hàng quen từ đời ông Giảng bố, ông bố chết rồi truyền lại cho con, ông con chết vào thời mở cửa, đất đai Hà Nội qúy như vàng vậy mà khi hấp hối, ông ta c̣n truyền lại cho 2 người con trai rằng: "Sở dĩ gia phong nhà ta, trên thuận dưới hoà và có thể sinh sống cho đến ngày nay, cũng là v́ phát sinh từ đây. Vậy sau này, có làm ǵ th́ làm, các con cũng cố giữ lấy cái quán này để mà sống. Trước là để ghi nhớ công ơn ông bà gầy dựng, sau là để nương tựa nhau mà sống. Trong chúng con, sau này nếu có đứa nào thế này thế nọ th́ phải rộng lượng mà bảo ban nhau. Hạt gạo nếu có lọt sàng th́ cũng xuống nong, không mất mát đi đâu mà sợ". Đấy ông trông vào trong kia ḱa, hai chị em dâu cứ cật lực vui vẻ chung sức mà chung sống với qúan cà phê này đấy! Thật là đáng khen và qúy hiếm.

Tôi nh́n vào bên trong, hai người đàn bàỉ trạc độ ngoài 30 đang vui vẻ nói cười, người nào việc nấy, người th́ đang pha nước sôi vào b́nh thủy, kẻ th́ đang pha chế cà phê, trông dáng vẻ của họ thật là vui tươi, thơ thới. 

Những cánh cửa sắt của các gian hàng đối diện và chung quanh đồng loạt theo nhau mở ra, gây những tiếng kêu ken két của những thanh sắt khô khan va chạm vào nhau, xe cộ ngoài đường cũng bắt đầu tấp nập qua lại, báo hiệu một ngày mới của phố thị Hà Nội bắt đầu. Chúng tôi xin nhà chủ tính tiền và ngỏ lời chào tạm biệt ông cụ cùng những người khách ngồi gần bàn.

Một ngày của Hà Nội bắt đầu chậm hơn ở Sài G̣n. Nếu ở Saigon th́ xe cộ bắt đầu qua lại nhộn nhịp từ lúc 5,6 giờ sáng th́ ở Hà Nội bắt đầu chậm hơn, phải đến 7,8 giờ xe cộ mới tấp nập ngược xuôi và phải đợi đến 8,9g, các gian hàng mới bắt  đầu mở cửa. Đường phố Hà Nội chật hẹp và ít xe cộ hơn Sài G̣n nhiều. Ở đây chủ yếu là xe gắn máy, nhất là loại xe gắn máy Wave nhái Honda của Nhật. Thú thật, nếu không có bác tài th́ tôi không thể nào phân biệt được chiếc Wave nào của Nhật và chiếc nào của Tàu. Họ nhái cắp kiểu mă thật là tinh vi.

Phải ra tới cầu Chương Dương mới nếm được cái màn ùn tắc xe cộ. Hàng lượt người từ vùng ngoại thành đổ xô vô nội thành làm việc. Xe cộ từ các tỉnh đông bắc tuôn đổ về thành phố với đủ loại hàng hóa chất chồng, nhiều xe ngập cả mui, những chiếc xe đ̣ nhét chật người bên trong như những hộp cá ṃi, những chiếc xe đạp thồ nông sản từ vùng ngoại ô về thành phố, những con lợn được nhốt trong giọ, bị lật ngửa chổng 4 vó lên trời.

Nh́n mấy chiếc xe chở, thồ những lồng chở lợn đi ngang, bác tài kể rằng: "Cái loài lợn này buồn cười lắm! Để  sấp để ngiêng ǵ th́ chúng cũng giăy giụa và kêu la eng éc nhưng để ngửa th́ nằm êm ru, chịu chết". Bác tài rất dí dỏm và kể chuyện rất có duyên và chuyện ǵ, đề tài ǵ bác cũng nhập cuộc một cách dễ dàng, khiến đoạn đường xa xôi, gập ghềnh trở nên gần gũi hơn.

Xe qua cầu Chương Dương được một quăng th́ tiến sâu hơn vào vùng nông thôn Bắc Ninh. Những cánh đồng ruộng ở đây vuông vắn nhưng lại qúa nhỏ bé, không giống như ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trên cánh đồng vẫn như những bức tranh nông thôn quen thuộc. Những cô gái kéo gầu tát nước, những con trâu thè lưỡi kéo cầy. Mà trâu ở đây sao nhỏ qúa! Giống như những con nghé con trong miền nam. Bác tài kể rằng, ngoài này đồng ruộng nhỏ bé, hơn nữa đâu có nhiều đồng cỏ để nuôi trâu nên đa số nông dân phải t́m nuôi những con trâu thật nhỏ bé, không cần cho ăn nhiều và chỉ cần đủ sức kéo cày những ruộng đồng nhỏ. Ngoài các cánh đồng, chúng tôi thấy hầu hết là các bà, các cô gái làm việc, ít thấy bóng dáng đàn ông. Điều này, bác tài cho biết. Ruộng đồng đâu có đủ ăn, vừa canh tác, vừa giữ đất. Trông vào ruộng đồng mà thôi, chỉ có mà treo mơm. Đàn ông th́ phải đi làm việc khác, hoặc làm nhân công trong các xí nghiệp. Đời sống nông thôn ngoài này chật hẹp lắm! Quanh năm chẳng biết đồng bạc là cái ǵ, nhà nào có người biết buôn bán thêm hoặc làm việc xí nghiệp th́ có đồng ra đồng vào, mua sắm.

Trên đường rẽ vào làng Lim, chúng tôi đi ngang một cái chợ nhỏ, hàng hóa sơ sài vài món hàng nông sản cùng vài hàng tôm tép chài lưới từ dưới sông trong vùng đem lên. Ở đây cá tép qúy ít để có thể bán bằng cân mà đơn vị tính bằng con hay từng nhúm. Sức mua sắm ở đây rất yếu v́ như bác tài nói, nông dân có rất ít tiền mặt. Vùng này xu hào và táo dai rất nhiều, những trái xu hào to bằng những bát điếu và xanh tốt, những trái táo dai tṛn trĩnh và tươi xanh, cho vị thơm ngon, ngọt lịm mà gía cả chỉ 2,3 ngàn một kư. Ở đây cũng có loại mía tía mềm và ngọt lịm, bày bán khắp chợ nhưng chẳng thấy ai đoái hoài, có lẽ nhà nào cũng có một vài bụi nên không mấy người thiết mua?

Ao làng Lim khá rộng và nước trong ao đục ngầu. Bên bờ ao là một chiếc cầu gỗ nối dài với hai chiếc thuyền, neo đậu ở giữa ao. Thấp thỏm trêân 2 chiếc thuyền là những đàn anh, đàn chị đang tất tả chuẩn bị cho buổi tập dợt. Những chiếc nón quai thao, những chiếc áo dài tứ thân đă được móc, treo sẵn đâu đó. Chung quanh bờ ao, người ǵa trẻ em đă vây quanh khá đông. Con gái vùng này khá xinh xắn và cân đối. Họ trao đổi với nhau với giọng nói cao vút như những con chim sơn ca cất cao tiếng hót, nghe thật khó hiểu. Quê tôi ở không xa đây mấy nhưng v́ đă lưu lạc từ lâu, nay về nghe lại như một âm thanh xa lạ.

Tiếng trống triệu tập bắt đầu, những đàn anh, đàn chị lũ lượt từ đâu kéo đến. Họ ăn bận quần áo màu sắc rất đẹp mắt. Nh́n những cô gái quan họ, trong những chiếc áo dài tứ thân, để hở lộ chút thăn vú ra ngoài cái yếm thắm, tôi nhớ lại mấy câu ca dao ví von, tả sắc đẹp người con gái Bắc Ninh.

Em là con gái Bắc Ninh

Em nghiêng vành nón, mái đ́nh nghiêng theo.

Hay

Ṭa sen Phật muốn lặng thinh

Nghe em ca bỗng thấy ḿnh trần gian.

Tôi rất thích đi coi chèo Bắc và nghe hát quan họ. Nhưng cho đến nay, tôi chỉ mới được coi hát quan họ qua các băng nhựa hay qua các chương tŕnh tv nên ḷng tôi rất hồi hộp trông chờ buổi tập dượt bắt đầu.

Hai cô gái rất xinh đẹp, chân không trắng nơn, từ trong một ngôi đền đi ra, một cô, hai tay bưng một mâm trầu, c̣n cô kia th́ bâng một mâm rượu. Tôi đoán họ sắùp hát bài "Người ơi!  ở lại đừng về". Tôi nao núng giống như chính ḿnh là người khách mà chút nữa đây sẽ được các em gái làng Lim dâng trầu, dâng rượu với những lời mời đầy quyến rũ, trữ t́nh: "người ơi! ở lại đừng về".

Tiếng trống chầu văn bắt đầu và tiếng nhạc  cũng đả nổi lên. Tôi nghĩ rằng ḿnh thật khó có thể bước chân ra về sớm hơn. Ḥa cùng tiếng trống tiếng kèn là một đoàn rước ăn vận trang phục của vùng đồng bằng Kinh Bắc. Đi đầu là mấy cụ ǵa, sau đó là lớp đàn chị, đàn anh (dân địa phương đọc là liền chị, liền anh) và sau cùng là mấy mâm xôi, mỗi mâm, trên đặt một con gà luộc vàng ngậy.

Đi ngoài đoàn rước là hai thiếu nữ  đi giật lùi, bưng một vỏ b́nh tích, trong đựng thứ ǵ không biết. Hai cô liền tay cho vào b́nh lấy đồ phân phát cho bọn đàn anh, đàn chị. Thấy lạ, tôi tiến tới một anh thanh niên đánh trống khẩu gần đó kiếm cớ  làm quen rồi hỏi:

- Anh ơi! Hai cô kia đang phân phát thứ ǵ đó?

- Th́ là vỏ trám trắng với nhúm oản chứ có ǵ!

- Mà vỏ trám trắng để làm ǵ?

- Để ngộ nhỡ tắc giọng th́ ngậm vào cho thông. Anh hỏi ǵ mà ỡm ờ!

Anh ta vừa luôn tay đánh trống khẩu, vừa quay lại nh́n tôi. Có lẽ thấy tôi là khách phương xa nên đă dịu giọng.

- Ấy chết! Ông anh là khách phương xa, em lại cứ tưởng bọn nhăi ranh làng Vọng tới đây phá phách.

- Ủa, chỉ là buổi diễn tập mà sao lại trịnh trọng thế?

- Tuy gọi là diễn tập nhưng hôm nay có cả liền anh liền chị ở Nhồi, Nội Duệ kéo đến nên ta phải thết đăi cho tử tế.

- Thết đăi chỉ bằng xôi gà thôi à!

- Bọn con hát không dám xơi thịt lợn đâu, mỡ vào tắc cổ th́ hát thế chó nào được. Mà ngay cả thịt gà, gọi là thịt chứ họ cũng ăn đăi bôi qua loa gọi là mà thôi.

- Thế hôm nào mới là ngày hội chính?

- Ngày hội chính thức là ngày 13 nhưng từ nay tới đó, con hát kéo tới lai rai, hát hoài. Anh cứ ở lại đây chơi vài bữa, mặc sức mà coi. Mà anh từ đâu đến đây?

- Tôi sinh đẻ ở Yên Phong, cũng là quê hương quan họ nhưng đi xa lâu rồi, nay chắc là lạc điệu.

- Đă là dân quan họ th́ lạc điệu thế đếch  nào được. Nếu đi xa lâu ngày quên th́ ḿnh tham gia giọng phụ, miễn là có trí nhớ tốt, thuộc bài nhắc tuồng cho anh chàng giọng diễn và có chút giọng ̣ ơ là được rồi.

- Thế ḿnh phải đăng kư ở đâu mới được phép tham dự?

- Thế làng anh có đoàn hát nào kéo tới đây không?

- Chắc là không có, vậy tôi có thể tham gia vào một làng khác được không?

- Anh đứng đây đi, tôi nhờ một tay đánh trống giúp rồi dẫn anh đi gặp mấy tay liền anh, liền chị, coi họ có cho nhập đoàn hay không?

Ngay từ nhỏ, ảnh hưởng những bài viết về quan họ, tôi hằng ao ước được một lần mặc áo dài khăn đống, đứng cạnh một cô gái mặc áo tứ thân, đội nón quai thao để cất cao tiếng hát quan họ. Không ngờ cái ước mơ nhỏ bé lại gần thành sự thực.

Anh đánh trống khẩu bỏ đi một hồi th́ quay lại, anh dẫn tôi vào trong một góc đ́nh, nơi các đoàn quan họ đang trang sức, mỗi người ngồi một góc, những cái gương để dưa vô những chiếc cột đ́nh. Các cô đa số vẫn c̣n mặc yếm. Yếm hồng, yếm thắm đủ màu, áo tứ thân h́nh như chỉ được mặc vào trước lúc diễn.

Tôi có một xấu tật mà có lẽ người khác nh́n vào mới thấy. Cặp mắt tôi ít khi nào bỏ lỡ cơ hội trước những tác phẩm ưu việt của thượng đế. Đối với tôi cảnh vật thiên nhiên đẹp đẽ đến mấy, cũng chỉ là thứ yếu. Tác phẩm tuyệt trần phải là thân xác đàn bà. Nhất là những cô gái che khép thân h́nh nửa hở nửa kín bằng những vuông yếm thắm ở làng Lim này.

Tôi được đưa tới anh Lâm cùng chị Nga, một đàn anh, đàn chị. Có lẽ cả hai người đều đă ngoài 30 và cũng đă có gia đ́nh. Nh́n vào cặp vú đu dưa của chị Nga trong miếng yếm ngắn, tôi đoán như thế. Anh chị chào hỏi tôi rất thân t́nh và cuối cùng hỏi tôi có biết hát không? Tôi trả lời rằng hát th́ không có giọng nhưng có thể thuộc bài và ú ớ phụ họa. Họ nh́n nhau có vẻ ngạc nhiên rồi hỏi:

- Chết thật, nếu ông anh không có giọng và chưa bao giờ hát quan họ th́ không thể nào một sớm một chiều luyện giọng được. Nếu qủa thực ông anh thích tham gia th́ chúng tôi xin ghép ông anh vào một vai phụ diễn nhưng khi anh em hát th́ xin ông anh chỉ mấp máy môi thôi chứ đừng hát thành tiếng nhé! Chen vào lạc giọng anh chị em th́ chết cả lũ.

Chị Nga thêm vào:

- Ô cái anh Lâm này hay nhỉ! Người ta tay ngang khi không lại cho vào tham gia. Bưng mâm, bưng trà ǵ th́ cũng phải có điệu bộ cả chứ, bây giờ cận rồi, giờ dâu mà chỉ bày.

- Nh́n mặt mũi ông anh sáng láng lắm, chắc không đến nỗi.

- Nhưng cũng phải có quần áo cho anh ấy mặc chứ! Béo tṛn béo trục như vậy th́ quần áo đâu mà mặc vừa?

- Th́ anh Hợi đấy! Anh ấy đang kiếu ốm, người nặng cả tạ làm ǵ mà mặc không vừa!

- Ấy chết! Tôi chỉ có 65 kư mà thôi. Nh́n thấy phốp pháp vậy chứ không béo lắm đâu.

Thấy tôi thanh minh, cả hai anh chị đàn anh, đàn chị cùng nở một nụ cười cảm thông vui vẻ. Thế là tôi sắp được trở thành con hát quan họ.

Cô Thúy, một cô gái trẻ đem đến cho tôi một bộ quần áo, bộ quần áo có lẽ đă mặc qua nên tôi hơi ngần ngại. Từ nhỏ, tôi vốn sợ cái bệnh hôi nách nên ít khi dùng quần áo chung của ai. Những năm học tiểu học ở Sông Cầu, nghèo khổ là vậy, đi học chỉ duy nhất một bộ vậy mà khi chú tôi cho mượn áo, tôi cũng không dùng thế mà giờ này, tôi lại phải bận một bộ quần áo của người lạ. Thấy tôi có vẻ ngần ngại, cô Thúy hiểu ư, nói:

- Ông anh cứ mặc vào đi, quần áo này được giặt giũ sạch sẽ rồi!

Tôi nh́n vào khuôn mặt khả ái của cô gái. Chắc đang ở độ đương th́, cặp vú nở tṛn căng nhung nhúc, để lộ hai đầu vú nhọn tṛn như hai đầu con quay. Tôi thầm khen cho người tạo mẫu ra cái yếm thắm này. Cái yếm này, tôi đă thấy cô tôi rồi các bạn học của tôi bận từ ngày tôi c̣n trẻ lắm vậy mà ngày nay, ở các xứ âu tâu người ta mới vẽ ra cái mẫu yếm này. Năm ngoái, nhờ cái mẫu yếm này mà vợ tôi bán được một số hàng khá lớn. Giờ này mới là cuối đông mà các nhà tạo mẫu âu tây đă cho ra cái h́nh mẫu yếm mới, nó nằm xéo và mang màu sắc mới. Thế mới biết rằng tổ tiên của chúng ta có cái nh́n tinh tế và đi trước bọn âu tây hằng trăm năm.

Phải đứng trước dung nhan của cô Thúy, cũn cỡn trong chiếc yếm mỏng manh mới thấy được rằng các nhà vẽ mẫu của chúng ta ngày xưa thật là phóng khoáng và tinh đời. Chỉ cần một vuông vải mỏng, với hai sợi dây cột buộc sau lưng, đă bó tṛn được cặp vú nhung nhúc, bềnh bồng nổi gợn màu hồng da thịt mờ ảo, ẩn hiện trong lớp vải mỏng. Để hở cái lưng trần trắng nơn, toát tỏa mùi thơm da thịt, ḥa quyện thơm ngát mùi hương đồng.

Hăy nh́n kỹ cô Thúy ḱa! Phải chăng thượng đế tạo nặn ra cô để tôi đứng nh́n ngây ngất không nhỉ!

Thúy đă choàng chiếc áo dài cho tôi, chiếc áo khá vừa vặn. Tưởng thế là xong, đàn anh đến xem, bắt tôi phải tỉa cắt lông mày và xoa lên mặt một lớp son phấn. Thú thật hai cái điều này là cái điều cấm kỵ đối với tôi. Hầu như ai nh́n vào cặp lông mày của tôi cũng ác cảm, họ bảo dữ qúa! Nhiều người bạn đề nghị cắt bỏ, vợ tôi cũng thế, nhiều lúc định rằng đợi đến lúc tôi ngủ say sẽ cầm kéo cắt bớt nhưng rồi nàng sợ cái gương Quan Aâm Thị Kính nên chưa ra tay. Tôi cũng chúa ghét mấy anh chàng nam ca sĩ thoa son, trát phấn trên mặt mỗi khi tŕnh diễn. Nhiều lúc tôi đang nghe mấy bản nhạc khá hay, bỗng đâu xuất hiện anh ca sĩ gương mặt đầy son phấn, tôi cảm thấy nhột nhạt, kỳ kỳ làm sao ấy, tắt bài nhạc đang nghe dở, đi làm chuyện khác.

Bây giờ tôi phải bôi mặt làm nghệ sĩ. Người ta nóùi: "Ghét của nào, trời cho của ấy!". Không hiểu có đúng với tôi trong trường hợp này không? Tôi định bụng không chấp nhận nhưng nh́n cặp vú nhung nhúc của Thúy cùng các cô gái khác. Tôi buộc ḷng phải trở thành hoạn quan.

Anh Lâm và chị Nga đưa tôi lên đền Cả để nhập vô đoàn hát của họ. Th́ ra họ chưa tập luyện hát  ngay mà phải tập trung để nhập lễ rồi rước Thành Hoàng  từ đây xuống đồi Lim. Gọi là đồi Lim v́ ở đây trứơc kia có rất nhiều cây Lim. Mục đích của cuộc rước này là đề dân làng bắt đầu dọn dẹp đường cái, nhà cửa hai bên đường và để cho con hát có dịp tập dượt, chuẩn bị cho lễ hội.

Đồi Lim không cao lắm nhưng từ đây có thể quan sát một con đường thẳng tắp từ đồi xuông tới ao làng. Hai bên đường cờ xí rợp trời, những chiếc cờ đuôi nheo căng gío tung bay phất phới với đủ mọi màu sắc, nh́n rất vui mắt. Chung quanh ao làng, hàng ngàn khách thập phương kéo đến xem kín mít, những chiếc thuyền chút nữa đây sẽ được các liền anh, liền chị biến thành sân diễn đă đựoc neo đậu ngay những chiếc cầu gỗ, bên cạnh những cánh sen tím ngát. Những cô gái mặc áo tứ thân, đầu đội nón quai thao vẫn tất tả ngược xuôi. Đang c̣n quan sát cảnh người tấp nập kéo đến nối dài đoàn rước, cô Thúy từ dưới ao làng đi lên, trên đỉnh nón quai thao, cô đội một nia toàn là táo dai, trái nào trái ấy to tṛn và chín mộng,  phát cho mọi người trong đoàn. Tôi cầm lấy 2 trái, cô dí thêm vào tay tôi thêm mấy trái nữa. Tôi làm theo anh Lâm, nhay chùi trái táo vào đùi rồi đút vô miệng cắn một miếng. Táo ở đây ngon ḍn và thơm phức, một vị ngọt dịu và mát miệng. Tôi đoán là họ ăn táo cho trong tiếng chăng?

Không thể nào tôi lại có thể bỏ qua cái nh́n dán chật vào thân h́nh cô Thúy. Hai vạt áo đung đưa, lúc lắc qua lại theo dáng đi, để lộ hai thăn vú ngoài góc yếm, trắng nơn, tṛn trĩnh và căng đầy. Tôi lén lấy máy h́nh ra chụp một vài pô, may là máy nhỏ và có màn h́nh nên không cần phải đưa lên nhắm. Chắc là không có ai nh́n thấy? Tôi định bụng rằng chút nữa đây, tôi sẽ làm một bài quan họ tặng Thúy.

Cô Thúy đă đi khuất nhưng tôi vẫn đứng chết trân cho tới khi anh Lâm vỗ vào vai tôi.

- Anh bạn ơi! Ḿnh đi thôi! Tương tư rồi ả?

Tôi giật ḿnh khi biết được người khác đọc được ư nghĩ của ḿnh. Tôi thán phục Lâm nhưng lại tự an ủi. Thằng đàn ông nào chẳng thế, khác nhau là hắn ta nh́n quen h́nh ảnh này qúa rồi nên đă nhàm mắt.

Đoàn rước bắt đầu khởi hành và đủ mọi loại nhạc cụ đựơc trổi lên. Mỗi đoàn đều có những thanh âm và bài hát riêng của ḿnh. Tôi không dành âm nhạc và có cặp lỗ tai không thính nên đă không phân biệt được những âm thanh phát ra. Có bài th́ nghe có vẻ quen thuộc, có bài th́ nghe lạ lắm, không hiểu ở thể điệu nào.

Trong đoàn tôi, cô Nga cũng đă bắt đầu trổ lên tiếng hát và tiếp đó là Lâm. Họ hát điệu ǵ tôi không biết, nghe na ná như những giọng điệu mà tôi thường nghe trong các tuồng chèo cổ Bắc phần. Sau Nga và Lâm là các con hát trai gái phụ họa. Họ vừa hát, vừa quay ṿng bên nhau, thỉnh thoảng đưa chén rượu, cơi trầu lên mời nhau. Tôi cảm thấy lạc lơng, thỉnh thoảng cũng định lên tiếng phụ giọng ̣ ơi nhưng sợ người khác lạc giọng nên không dám. Lâm biết ư, đưa cho tôi chiếc quạt rồi chỉ tay về một phía một ông bô lăo đang vừa vung quạt, vừa hất cẳng theo nhịp. Tôi hiểu ư làm theo. Thấy chỉ một động tác thông thường mà làm theo sao mà khó thế! Thấy ông lăo kia làm động tác ǵ th́ tôi làm theo như thế. Thấy ông lăo cầm quạt, rồi kiễng cẳng quay ṿng, tôi làm theo. Th́nh ĺnh tôi thấy chóng mặt, mất thăng bằng, tựa hồ như muốn đứng không vững. Cô Nga nh́n tôi, lấy quạt che miệng cười. Tôi tự cảm thấy thật là vô dụng, đúng là "văn dốt vơ dát" nên định bụng khi đoàn rước xuống tới cầu ao là xin phép cáo từ, rút ra khỏi đoàn.

Cô Thúy lại từ cầu ao đi lên, vẫn cái eo thon nơn nà, vẫn với cái vạt yếm cũn cỡn, không đủ che kín thân h́nh. Cô nh́n tôi, miệng cô nở nụ cười tưới như hoa, khiến tôi cảm thấy háo hức, rạo rực khôn tả. Tôi dán chật mắt nh́n cô, cô ngượng ngùng sao đó, quay nh́n đi nơi khác.

Tai tôi không c̣n nghe rơ lời nhạc tiếng ca nữa mà chỉ nghe rơ tiếng hát ngâm của chính ḿnh, tiếng ngâm lập lờ trong tâm năo. Th́ ra tôi đang làm một bài ca quan họ. Tôi chẳng dành thể điệu, nghe thấy âm thanh và lối hát láy và cứ thế nhẫm theo và tạo vào ư thơ của ḿnh.

Em gái quan họ

(Tặng Thúy và đoàn ca Lim)

Em che yếm thắm nửa người

Hở lưng trần nơn, để đời lên hương

Giọng ca em hát du dương

Nghe em láy giọng, anh thương vô vàn!

 

Về đây Quan họ ngút ngàn

Lời ca trầm bổng mở màn yêu đương

Liền anh, liền chị mến thương

Miếng trầu, ly rượu nhớ thương ngút ngàn

 

Về đây quan họ kết đoàn

Bên em yếm thắm, nơn nàng yêu đương

Nh́n em sao thấy vấn vương

Bên em sao thấy yêu thương nồng nàn!

 

Tôi nhẫm đi nhẫm lại cho thuộc hẳn rồi viết vội ra tờ giấy, chờ Thúy đến để nhét vội vô tay nàng. Nghĩ th́ nghĩ thế nhưng mỗi lần Thúy qua lại, tôi lại cứ cảm thấy ngường ngượng làm sao ấy! Cứ định đưa rồi lại thôi. Tôi cảm thấy ḿnh như thằng con trai mới lớn, cảm thấy thân xác yếu mềm trước một cô gái ḿnh để tâm để ư.

Lâm lại hiểu ư tôi, anh nói:

- Thôi đưa đây anh hai, để đàn em làm ông tơ bà nguyetả cho.

Thấy Lâm có vẻ ma mănh nhưng rất thân t́nh, tôi đề nghị Lâm đọc bài thơ trước khi trao cho Thúy. Đọc xong bài thơ tôi viết, Lâm tiếp:

- Được qúa đi chứ! Thế này là nhất rồi! Làm ǵ mà cô Thúy lại không "phải ḷng"?

- Ấy chết! Anh đừng nói như vậy không nên. Tôi không có ư đó đâu. Qua đường thấy người tài sắc th́ nổi chút thi hứng vậy thôi.

- Ấy làm ǵ mà phải khéo lời! Chút nữa đây bọn em sẽ hát mấy vần này cho ông anh nghe nhé!

Vừa nói xong, Lâm tiến nhanh bước, bắt kịp cô Thúy đang ve vẩy phân phát thứ ǵ cho ai đó! Không hiểu Lâm đang nói ǵ với Thúy, chỉ thấy thỉnh thoảng cô ta nh́n về phía tôi, đập chân, răy nảy. Từ lúc đó cho tới khi đoàn rứơc xuống tới ao làng, tôi không thấy Thúy đâu nữa.

Thấy vai tṛ của ḿnh trong đoàn thật vô duyên và vô tích sự, vả lại cũng đă đến giờ lên đường đi Ngăm Giáo nên tôi buộc ḷng phải kiếu từ đoàn ra đi. Anh Lâm và chị Nga cố giữ tôi lại nhưng rất tiếc tôi không thể tŕ hoăn lâu hơn. Trước khi ra đi, tôi nhét vội hai tờ giấy bạc vào hai tờ giấy, gặp lại rồi trao cho anh Lâm và chị Nga. Một tờ biếu đoàn và một tờ biếu cô Thúy. Biếu đoàn v́ đoàn đă cho tôi được một nửa ngày trời vui thú hứng khởi, cho tôi nhập đoàn, bôi son thoa phấn diễn tuồng. Tiếc một điều  là tôi vụng về qúa, không làm ǵ nên chuyện. Một tờ biếu cô Thúy, phần v́ cái nét đẹp kiêu xa lăng mạng của cô, một phần tạ tội với cô v́ đă gây cho cô những ngượng ngùng, mắc cở….

Không giữ tôi được lâu hơn, anh Lâm chị Nga đă tặng tôi một gói xôi, một ít trái táo dai cùng một lá cờ đuôi nheo làm kỷ niệm. Sau đó, anh chị huy động mọi người vào góc bờ ao, nơi dành cho đoàn tập dượt để hát một bài tặng và tiễn chân tôi. Tôi rất cảm động và muốn bật khóc khi tôi được nghe chính cô Thúy (chứ không phải cô Nga) và anh Lâm trổ bài thơ của tôi tặng Thúy sang thể quan họ.

 

Em che "này" yếm thắm "chứ" nửa người

Hở lưng "này" trần nơn "chứ", để đời "là đời" lên hương í ́ í i

Giọng ca "này" em hát "chứ" du dương

Nghe em "này" láy giọng "chứ" , anh thương "là thương" vô vàn! í ́ í i….

………………………………..

………………………………….

Nh́n em "mà" sao thấy "chứ"  vấn vương

Bên em "th́" sao thấy "chứ" yêu thương "là thương"  nồng nàn! í ́ i

 

Giọng ca của Thúy cao vút tới tận trời xanh rồi rơi quyện vào ḷng tôi, khiến ḷng tôi nức nở tới tận cùng. Tôi cảm động và thấy thân thể ḿnh như mất trọng lực, tôi thả hồn xa xa, ḥa quyện với lời ca tiếng hát. Trên bầu trời xanh và cao vút, những con nhạn  đang bay lượn, đong qua đan lại, như đang chào đón một mùa xuân t́nh ái.

Tôi phải rằn ḷng để không bật lên tiếng thổn thức v́ cảm động. Những ca viên quan họ, diễn ngâm hay qúa, những tiếng láy giọng của họ như chọc thủng vào tận tâm can của tôi. Tôi liếc mắt nh́n Thúy, cô vẫn đang say sưa hát lại lần thứ hai như một điệp khúc mang nặng t́nh cảm để trao tặng tôi trước khi ra đi.

Tôi tiếp tục lên đường đi thăm viếng làng Ngăm. Những cánh đồng làng Lim xanh ngắt cứ thi nhau tụt  lùi xa tít nhưng bên tai tôi vẫn c̣n văng vẳng những lời quan họ yêu thương chan t́nh và chan chưa t́nh người.

Trước mắt tôi, trên cánh động mạ non xanh mướt, lại chợt hiện lên h́nh một giai nhân, đeo yếm thắm nửa người.

 

Đường về làng Ngăm

Từ đây về làng Ngăm c̣n khá xa, phải qua thị xă Bắc Ninh rồi lấy hướng đi Hải Dương, tới cầu Sen Hồ, rẽ vào đường đê và đi tiếp 6 cây số nữa mới tới. Cầu Hồ khá dài, bắc qua sông Đuống. Xưa kia phải đi đ̣ và cây cầu này mới được xây cất cách đây 4 năm nên việc đi lại rất thông thoáng và dễ dàng.

Ngăm Giáo là quê của vợ tôi và cũng là nơi mà tôi có khá nhiều bạn bè thân thiết t́nh nghĩa. Dân làng Ngăm nổi tiếng là hiền lành đạo đức. Chẳng thế mà có người dù định cư ở phương tây nhưng vẫn giữ được ḷng đạo và vẫn giữ được giờ kinh sáng tối và tham dự các thánh lễ dù là ngày thường. Có người dù bận bịu với sinh kế nhưng vẫn hy sinh giờ giấc làm việc thiện nguyện, giảng dạy giáo lư….Anh Phạm Ánh, dù bận bịu với pḥng mạch nhưng anh chị vẫn tham dự càc hội đoàn và tham gia dạy giáo lư, anh Nguyễn Đăng Cao tích cực trong phong trào thăng tiến hôn nhân. Anh vẫn giữ được những giờ kinh sớm tối. Thật lá qúy hóa! Làng Ngăm cũng sản sinh ra những vị linh mục đạo đức, thánh thiện.

Thày Marcel Nguyễn Tân Văn

Đặc biệt làng Ngăm, đă sản sinh ra một bông hồng cho giáo hội, một hương hoa Ngăm Giáo mà "niềm tin không thể chết", thày Marcel Nguyễn Tân Văn. (Xin xem phần tiểu sử thày Văn *".

Đường từ cầu, rẽ vào đê để vào Ngăm thật là bụi bậm và gập ghềnh, đường nằm dọc theo sườn đê, ổ gà lơm chơm và tung bụi mù trời. Hai bên đê, những làng quê nằm gọn ghẽ, thu ḿnh trong những thuở ruộng tươi xanh. Ruộng ở đây thật là nhỏ bé, không rộng lớn, thẳng cánh c̣ bay như ở trong Nam. Những vuông ruộng nhỏ bé, vuông vắn như những ô cờ. Đời sống nông thôn ở đây c̣n nghèo lắm. Chủ yếu vẫn lao động bằng chân tay, khắp một đoạn đường dài mấy cây số, tôi không hề nh́n thấy một loại máy móc nào. Tuy không c̣n cảnh người cày thay trâu nhưng trong cánh đồng, những con trâu nhó bé và gày ốm tong teo. Lúc đầu, tôi lại tưởng người ta dùng những con ghé cầy ruộng, đành buột miệng hỏi một bà đang giữ tay bừa:

- Bà ơi! Ở đây người ta dùng nghé cầy ruộng à!

- Mắt mù à! Trâu rơ mười như vậy mà nghé à!

- Thế sao nó bé thế?

- Bé cái nhọ mẹ nhà nhà anh chứ lớn với bé ǵ?

- Con trâu cao không qúa đầu người, sao  lại không bé?

- Ruộng bằng cái bát thế này th́ cần ǵ trâu mộng cho tốn cỏ. Thôi cút đi!

Đến khi bà nông dân nghiêng nón nh́n lên đê, thấy chúng tôi có vẻ tương đối "lịch sự", không phải là dân phá đám, bà ta đổi giọng ôn tồn hơn. Phải công nhận một điều là đàn bà ngoài Bắc dữ thật! Nhiều người kể thế nhưng bây giờ tôi mới tin.

Th́ ra những mảnh ruộng ngoài bắc nhỏ bé qúa và lại thiếu cỏ nên đa số nông dân đă dùng những con trâu nhỏ bé, nh́n rất lạ mắt và tôi vẫn không hiểu người ta nuôi cách nào mà lại có những con trâu lạ mắt như thế?

Đi được một quăng, chúng tôi dừng lại bên một thuở ruộng, các cô thợ cấy xoắn ống quần cao tới bẹn, đang h́ hục gieo, cấy. Những cặp gị trắng nơn đă đổi sang màu tím v́ thời tiết gía lạnh. Cái lạnh ở đây rất khó chịu, tuy chỉ 13°c nhưng cảm thấy như bị cắt da, cắt thịt do bởi ảnh hưởng của gió bấc. Ở thuở ruộng bên cạnh th́ hai cô gái trạc tuổi 17,18 đang vung tay kéo gàu tát nước vô ruộng. Cô nào cô ấy ăn mặc kín mít để che, chống cái lạnh. Thấy các cô cật lực làm lụng vất vả, cảm thấy thương thương sao ấy! Sẵn có mấy hộp chocolate đem theo, tôi lấy một hộp, xoắn quần men theo bờ ruộng, đem tới tặng mấy cô. Cô nào cô ấy bịt khăn che kín mặt, chỉ hở những cặp mắt đen nhánh. Không hiểu v́ bỡ ngỡ v́ cái hành động khác thường của tôi hay v́ cô nào cũng tay lấm đầy bùn nên không chịu cầm, nhận hộp chocolate. Tôi đành để nó xuống bờ ruộng gần đấy.

Hồi tôi c̣n nhỏ, thường nghe kể về gai dứa, không hiểu những điều này có thật hay không nhưng khi nh́n thấy những chiếc liềm, những bụi gai dứa gần đấy mà cảm thấy nhồn nhột sao ấy! Tôi cũng được nghe chính miệng chú tôi kể rằng hồi xưa, con gái làng Yên Phụ hay chữ và đối đáp tài t́nh lắm. Một hôm chú tôi và chú Mến bạn của chú cùng mấy người bạn trai từ Bắc Ninh về làng nghỉ, qua cánh đồng Yên Phụ. Thấy các cô đang dán mũi xuống đất, liền buông tiếng chọc ghẹo:

Ớ này em cả, em hai đó ơi!

Trời đầy có tội ǵ đâu, mà ngày ngày các em lại cứ chổng cái "phao câu" lên trời?

Mấy chú đối xong, tỏ vẻ đắc ư, chống nạnh nh́n các nàng đang thoăn thoắt nhổ cỏ gieo mạ. Bỗng đâu, các nàng đồng loạt đứng dậỉy, quay mặt vào nhau bàn thảo điều ǵ đó rồi một cô trong bọn lên giọng:

Các anh đủng đỉnh đi đâu

Dừng chân đứng lại em than vài lời

Tội th́ không có anh ơi

"Phao câu" không chổng anh xơi món ǵ?

Thấy bị đụng phải bọn gái hay chữ, các chú không có khả năng đáp lại nên hè nhau tháo chạy. Bọn con gái đuổi theo và bắt được chú Mến làm tù binh. Tội nghiệp chú, tuy không bị cưa gai dứa nhưng bố mẹ chú phải lạy lục cụ tiên chỉ, áo dài khắn đống, mâm xôi cơi trầu sang làng Yên Phụ chuộc chú ấy về. Từ ấy chú bị chết tên là "Mến cụt".

Đoạn đường vào làng Ngăm có vẻ rộng răi hơn và trên đoạn rẽ, đă có những lớp đá, nhựa tuy đă bong chóc. Những ngôi nhà cũ kỹ nhưng ngăn nắp đă hiện rơ, bên ngoài c̣n nhấp nhô những bờ cao, in hằn dất vết của một lũy tre làng bao phủ.

Cảnh sắc ở đây thật là tươi đẹp, ngọn tháp nhà thờ Ngăm đă ẩn hiện xa xa, mờ ảo trong lớp mây chiều dày đặc, sau một cơn mưa khá nặng hột. Ngọn núi Thiên Thai nhấp nhô theo bánh xe chạy gập ghềnh trên con đường lồi lơm, khiến tôi nhớ lại bài hát "trèo lên trái núi Thiên Thai", thật là gợi cảm và trữ t́nh.

Khác với con đường đất đỏ bụi mù dẫn  vào làng. Đường trong làng Ngăm thật là tươm tất và sạch sẽ, hầu hết được lót đá, gạch hoặc tráng nhựa. Nhà cửa ở đây h́nh như lâu đời không được tu sửa nên những lớp vôi tường đă trở màu loang lỗ và hoen ố. Những chiếc ao làng h́nh như chỉ có  nước tù nên trở màu xám đục và bốc mùi tanh tưởi.

Khi tôi tới nhà thờ Ngăm, cảnh trí nơi đây im ĺm, tất cả các cửa chính vào thánh đường và các cánh cửa được buộc chật bằng dây xích hoặc được đóng gh́m bằng những thanh ngang từ phía ngoài. Bề mặt ngôi thánh đường nhiều nơi bị rêu mốc bám phủ nhưng sân gạch bên ngoài th́ vẫn chắc tốt và bằng phẳng. Tháp giáo đường chỉ c̣n trơ ngọn nóc, những qủa chuông đă bị tháo gỡ đi đâu.

Chúng tôi t́m đường vào nhà chung, nơi đây, chúng tôi mới biết được rằng có một gia đ́nh bổn đạo đă cư ngụ ở trong căn nhà này từ mấy chục năm qua và chính nhờ gia đ́nh này mà ngôi thánh đường này vẫn tồn tại tới ngày nay.

Được như vậy là do công sức và sự tranh đấu liên tục, không ngừng nghỉ của gia đ́nh ông cụ Việt trong mấy chục năm qua. Đă bao nhiêu lần chính quyền trung ương và địa phương muốn tịch thu ngôi thánh đường để biến thành nhà kho, hợp tác xă như những nơi khác nhưng gia đ́nh ông cụ Việt vẫn kiên tŕ tranh đấu, dù có phải hy sinh đến tính mạng. T́nh yêu và đức tin không thể chết  như lời thơ của thày Marcel Văn dưới đây, một hương hoa Ngăm giáo nên cuối cùng ông cụ Việt đă thắng và ngôi thánh đường vẫn c̣n tồn tại đến ngày nay.

"Tôi không nh́n đâu xa

Cũng chẳng nh́n quanh quẩn...

Tôi chỉ ngắm nh́n người tôi yêu...

Chính lúc ḷng tôi yêu mến

Tôi t́m thấy hạnh phúc vô tận...

T́nh yêu không thể chết..."

Marcel Nguyễn Tân Văn

Năm 1954, dân làng Ngăm bỏ đi Nam, cụ Việt và một vài bà con khác v́ sinh nhai nơi xa đă không thể về kịp để ra đi với bà con nên họ đă kẹt lại. Trong mấy chục năm trời bị phân biệt đối xử, bị coi như một thành phần nguy hiểm của chế độ, họ không được cấp phát lương thực, không được đi học, không được chia đất hợp tác xă và không được tham gia những hoạt động khác của xă hội. Họ vẫn cứ âm thầm cắn răng chịu đựng. Bây giờ đổi mới, những cấm đoán dành cho họ được nới lỏng hơn và những cư dân mới của làng cũng nh́n họ với con mắt thiện cảm hơn.

Chúng tôi có dịp tiếp xúc với một vài ông cụ đang quét dọn một góc sân nhà thờ để làm sân đá cầu lông. Một ông cụ, bộ đội hưu viên đă kể với chúng tôi rằng:

- Thấy thật tội nghiệp cho gia đ́nh cụ Việt. Mấy chục năm kiên tŕ tranh đấu, nhờ vậy mà giữ được ngôi thánh đường cho tới ngày nay. Chúng tôi tuy là lương dân nhưng rất cảm phục trước những hành động tranh đấu qủa cảm của gia đ́nh ông cụ. Ở đây c̣n lại 3 gia đ́nh công giáo nhưng 2 gia đ́nh kia đă pha trộn lung tung, chỉ c̣n mỗi gia đ́nh cụ Việt là thuần giáo. Ấy vậy mà chẳng bỏ giờ kinh bao giờ. Lúc nào cũng có người túc trực trong giờ kinh sáng và tối……

Thật là một gương sống đạo qúy hiếm! Chúng tôi t́m thăm cụ Việt khi cụ đang bị bịnh, người cụ có vẻ tiều tụy xanh xao. Các con cháu của cụ, người nào người ấy vẻ mặt ngơ ngác sợ sệt, không mấy tự nhiên. Cái vẻ tiều tụy mất hồn của họ giống như những ngừơi cải tạo lâu ngày bị hành hạ thể xác và khủng bố tinh thần. Họ mất hẳn vẻ mặt tự nhiên và khả năng tiếp xúc với người khác. Họ trao đổi trong mặc cảm thua thiệt, họ lễ phép trong câu chuyện đáng ra không phải khép ḿnh đến thế.

Mấy chục năm trời bị phân biệt đối xử, bị khủng bố và ḱm hăm, những thành viên trong gia đ́nh cụ Việt đă h́nh như bị cô lập với thế giới bên ngoài, họ đă bị bỏ rơi và bị tước đoạt tất cả. Chỉ c̣n đức tin, Thiên Chúa và tấm ḷng sốt mến c̣n tồn tại.

Ngôi thánh đường khá khang trang xây theo kiểu Gô-tích, chung quanh thánh đường là con đường kiệu rộng răi thoáng mát với những cây xoan che phủ. Mặc dầu với rêu mốc của thời gian bao phủ, nhưng những góc cạnh xây cất mỹ thuật công phu, trang nhă với những đường nét trạm khắc tinh vi, tuyệt hảo, cộng thêm cách thức bài trí, nhà xứ, nhà chung... Đặc biệt nhất, toàn thể cung thánh với một bàn thờ chính, hai bàn thờ phụ, đều được sơn son thiếp vàng, theo kiểu các ngôi thánh đường cổ của xứ Tây Ban Nha. Ngoài khuôn viên nhà thờ cũng có con đường lót đă, tỏa rẽ về các con đường làng, ngăn nắp và thẳng tấp. đă chứng minh được rằng xưa kia, nơi này là một xứ đạo bề thế, có tổ chức và có một nền văn hóa lâu dài.

Bây giờ khung cảnh thánh đường tuy chưa hoang phế, đổ nát nhưng với thời gian và không được sửa chữa kịp thời th́ mối mọi sẽ lần hồi đục khoét. Tôi nh́n cha con cụ Việt đang bước vào nhan thánh, một ngọn nến được đốt lên, anh lửa leo lét không đủ rọi soi nhan thánh của những pho tượng cổ xưa, đă mang màu sơn loang lỗ. Tiếng kinh chiều thật thiết tha như tất cả sự phó dâng của những người con hiếu thảo, trung thành dâng lên Chúa, Mẹ.

Tôi rời thánh đường làng Ngăm, nơi tôi vừa chứng kiến những h́nh ảnh dơn sơ, mến thương, chân t́nh và đạo đức. Ḷng tôi thinh lặng như mới vừa rời một tu viện thánh thiêng, khổ tu và chiêm niệm. Cảm thấy ḷng ḿnh sao nhiều khắc khoải vấn vương.

 

Về thăm Ngăm giáo

Người cũ, quê đây đă đâu rồi

Buồn ḷng đất nước cắt chia đôi

Người Nam kẻ Bắc đau thương qúa

Kẻ ở người đi, khóc ngậm ngùi!

 

Tôi rời nơi đây sao vấn vương

Sao nhiều lệ tủi khóc sầu vuơng

Thánh đường, Mẹ đứng, âu yếm qúa

Vọng tiếng kinh chiều, tiếng Amen.

H.N.L.

 

Về thăm Ngăm Gíao, nơi sinh quán của vợ tôi và một số bạn bè thân thiết. Tôi đă gặp được những chứng nhân mà đức tin và "t́nh yêu Thiên Chúa" không thể chết.

Tôi cảm thấy hănh diện là giai tế Ngăm Giáo.

 

Hoàng Ngọc Lễ

(10.2002)

 

____________________________________________________________________

* = "Thầy Marcel Văn tên thật là Gioakim Nguyễn Tân Văn, sinh ngày 15.3.1928 trong một gia đ́nh Công giáo, tại làng Ngăm Giáo, một làng nhỏ thuộc tỉnh Bắc Ninh, nằm giữa Hà Nội và Hải Pḥng. Năm 17 tuổi, Thầy vào tu Ḍng Chúa Cứu Thế tại Thái Hà Ấp, Hà Nội, theo bậc trợ sĩ và khấn lần đầu ngày 8.9.1946.

Sau khi khấn ḍng, Thầy được Bề trên chỉ định về phục vụ tại Nhà Ḍng Thái Hà Ấp và sau đó ở các tu viện trong miền Nam. Năm 1954, trong khi hàng triệu người ngoài Bắc di cư vào Nam, Thầy t́nh nguyện trở ra Bắc để "ít nữa là có người yêu mến Chúa" tại đây. Thầy bị tố cáo và bắt vào ngày 7.5.1955, bị giam giữ trong nhiều nhà tù và chết ngày 10.07.1959 trong nhà lao Yên B́nh, cách Hà Nội 150 cây số.

Suốt cuộc đời vắn vỏi của ḿnh (31 năm), Thầy Marcel Văn đă phát triển tinh thần yêu thương, đùm bọc nhau trong gia đ́nh một cách tốt đẹp và gương mẫu. Nhờ tinh thần đạo đức đó, Thầy Văn đă sớm biết sống thân mật với Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Lúc sống chung với anh em trong Ḍng, Thầy chóng vánh, vui vẻ và tuyệt đối vâng lời bề trên, ra sức phục vụ anh em lớn nhỏ và luôn hoà dịu với mọi người. Noi gương Nữ Thánh Tiến Sĩ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trong lời cầu nguyện Thầy Marcel Văn đặc biệt lưu tâm đến các linh hồn đă từ bỏ ân sủng Chúa. Trong lao lư, Thầy đă hoàn toàn quên ḿnh để chăm sóc anh em đồng cảnh, bệnh hoạn, khốn khổ.

Nhờ một tập hồ sơ với hơn 1000 trang giấy viết tay và 370 lá thư c̣n được lưu giữ, trong đó Thầy Marcel Văn ghi lại những đặc ân Chúa ban theo lời truyền dạy của cha linh hướng Ḍng Chúa Cứu Thế người Canada Antoine Boucher, một linh mục người Pháp, cha Marie-Michel thuộc Ḍng Camêlô vào năm 1990 đă viết cuốn "L’Amour Ne Peut Mourir" (T́nh Yêu Không Thể Chết) nói về cuộc đời Thầy. Cuốn sách này sau đó đă được dịch ra các thứ tiếng khác trong đó có tiếng Việt, Anh, Tây ban nha, Đức và Ư. Cuộc đời của Thầy Marcel Văn qua tác phẩm này đă đánh động nhiều người tại Châu Âu, cách riêng giới trẻ, trên con đường canh tân đời sống đức tin.

Án phong Chân Phước cho Thầy Marcel Văn đă được bắt đầu từ năm 1984 khi Đức Cha Đaminh Nguyễn Văn Lăng, Giám mục Giáo phận Xuân Lộc, ủy thác công việc này cho Đức Cha Valois ở Canada. Sau khi cha Antoine Boucher qua đời vào năm 1991, v́ thiếu nhân sự lo cho việc này, Đức Cha Valois đă yêu cầu chuyển án phong Chân phước của Thầy Marcel Văn qua Pháp v́ nơi đây danh thơm thánh thiện của Thầy đă được lan rộng nhanh chóng do sự hưởng ứng tích cực của người Pháp sau khi đọc được tác phẩm "L’Amour Ne Peut Mourir" cũng như nhờ sự hăng say truyền bá tinh thần sống đạo của Thầy Văn bởi Hội "Les Amis de Van" tức Hội "Thân Hữu Thầy Văn" được thành lập vào năm 1991.

Năm 1994, Hội "Les Amis de Van" chính thức đứng ra đảm nhận việc đẩy mạnh án phong Chân phước cho Thầy Văn. Ngày 26.03.1997, bản án sơ khởi phong Chân phước cho Thầy như một vị Hiển Tu đầu tiên của Châu Á đă được khai mở một cách chính thức và trọng thể tại Giáo phận Belley-Ars, Pháp, tức giáo phận của Thánh Gioan Vianney. Vị Cáo Thỉnh Viên là Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Phó Chủ tịch Ủy ban Công lư và Hoà b́nh Toà Thánh (nay là Chủ tịch của Ủy ban này), và vị Đặc trách cuộc điều tra là Đức Cha Guy Marie Bagnard, Giám mục Giáo phận Belley-Ars. Hiện công việc đang tiến triển tốt đẹp. "